Bài 2: Xã hội nguyên thủy ( kiến thức cơ bản rất hay

Bài 2: XÃ HỘI NGUYÊN THUỶ

I. MỤC TIÊU BÀI HỌC

  1. Kiến thức

            – Hiểu được đặc điểm tổ chức thị tộc, bộ lạc, mối quan hệ trong tổ chức xã hội đầu tiên của loài người.

            – Mốc thời gian quan trọng của quá trình xuất hiện kim loại và hệ quả xã hội của công cụ kim loại.

  1. Tư tưởng

            – Nuôi dưỡng giấc mơ chính đáng – xây dựng một thời đại Đại Đồng trong văn minh.

  1. Kỹ năng

            Rèn cho Hs kỹ năng phân tích và đánh giá tổ chức xã hội thị tộc, bộ lạc. Kỹ năng phân tích và tổng hợp về quá trình ra đời của kim loại – nguyên nhân – hệ quả của chế độ tư hữu ra đời.

II. NỘI DUNG BÀI HỌC

Bài 1 cho chúng ta hiểu quá trình tiến hoá và tự hoàn thiện của con người. Sự hoàn thiện về vóc dáng và cấu tạo cơ thể. Sự tiến bộ trong cuộc sống vật chất. Đời sống của con người tốt hơn – đủ hơn – đẹp hơn – vui hơn. Và trong sự phát triển ấy ta thấy sự hợp quần của bầy người nguyên thuỷ – một tổ chức xã hội quá độ. Tổ chức ấy còn mang tính giản đơn, hoang sơ, còn đầy dấu ấn bầy đàn cùng sự tự hoàn thiện của con người. Bầy đàn phát triển tạo nên sự gắn kết và định hình của một tổ chức xã hội loài người khác hẳn với tổ chức bầy, đàn.

->  Họ hợp thành một tổ chức xã hội chặt chẽ hơn, gắn bó hơn, có tổ chức hơn. Hình thức tổ chức ấy gọi là thị tộc – những người “cùng họ”. Đây là tổ chức thực chất và định hình đầu tiên của loài người.

Để hiểu tổ chức thực chất, định hình đầu tiên của loài người đó, ta tìm hiểu bài hôm nay.

1. Thị tộc, bộ lạc.

a. Thị tộc.

– Thị tộc là nhóm hơn 10 gia đình và có chung dòng máu.

– Quan hệ trong thị tộc công bằng, bình đẳng, cùng làm, cùng hưởng. Lớp trẻ tôn kính cha mẹ, ông bà và cha mẹ đều yêu thương chăm sóc tất cả con cháu của thị tộc.

-> Nguyên tắc vàng trong xã hội thị tộc là của chung, việc chung, làm chung, thậm chí là ở chung một nhà. Tuy nhiên đây là một đại đồng trong thời kỳ mông muội, khó khăn nhưng trong tương lai chúng ta vẫn có thể xây dựng đại đồng trong thời văn minh – một đại đồng mà trong đó con người có trình độ văn minh cao và quan hệ cộng đồng làm theo năng lực và hưởng theo ,nhu cầu. Điều đó chúng ta có thể thực hiện được – một ước mơ chính đáng mà loài người hướng tới.

b. Bộ lạc.

– Bộ lạc là tập hợp một số thị tộc sống cạnh nhau và có cùng một nguồn gốc tổ tiên.

– Quan hệ giữa các thị tộc trong bộ lạc là gắn bó giúp đỡ nhau.

Vậy  điểm giống và điểm khác giữa bộ lạc và thị tộc?

      + Điểm giống: Cùng có chung một dòng máu.

      + Điểm khác: Tổ chức lớn hơn (gồm nhiều thị tộc)

        Mối quan hệ trong bộ lạc là sự gắn bó, giúp đỡ nhau, chứ không có quan hệ hợp sức lao động kiếm ăn.

2. Buổi đầu của thời đại kim khí

Từ chỗ con người biết chế tạo công cụ đá và ngày càng cải tiến để công cụ gọn hơn, sắc hơn, sử dụng có hiệu quả hơn. Không dừng lại ở các công cụ đá, xương, tre gỗ mà người ta phát hiện ra kim loại, dùng kim loại để chế tạo đồ dùng và công cụ lao động

a. Quá trình tìm và sử dụng kim loại.

– Con người tìm và sử dụng kim loại:

  + Khoảng 5500 năm trước đây – đồng đỏ.

  + Khoảng 4000 năm trước đây – đồng thau.

  + Khoảng 3000 năm trước đây – sắt.

-> Con người tìm thấy các kim loại kim khí cách rất xa nhau bởi lúc đó điều kiện còn rất khó khăn, việc phát minh mới về kỹ thuật là điều không dễ. Mặc dầu con người đã bước sang thời đại kim khí từ 5500 năm trước đây nhưng trong suốt 1500 năm, kim loại (đồng) còn rất ít, quý nên họ mới dùng chế tạo thành trang sức, vũ khí mà công cụ lao động chủ yếu vẫn là đồ đá, đồ gỗ. Phải đến thời kỳ đồ sắt con người mới chế tạo phổ biến thành công cụ lao động. Đây là nguyên nhân cơ bản tạo nên một sự biến đổi lớn lao trong cuộc sống con người.

b. Hệ quả.

Sự phát minh ra công cụ kim khí đã có ý nghĩa lớn lao trong cuộc sống lao động:

– Năng suất lao động vượt xa thời đại đồ đá,

– Khai thác những vùng đất đai mới, cày sâu cuốc bẫm, xẻ gỗ đóng thuyền, xẻ đá làm lâu đài;

– Đặc biệt quan trọng là từ chỗ bấp bênh, tới chỗ đủ sống tiến tới con người làm ra một lượng sản phẩm thừa thường xuyên.

3. Sự xuất hiện tư hữu và hội có giai cấp

Trong xã hội nguyên thuỷ, sự công bằng và bình đẳng là “nguyên tắc vàng” nhưng lúc ấy, con người trong cộng đồng dựa vào nhau vì tình trạng đời sống còn quá thấp. Khi bắt đầu có sản phẩm thừa thì lại không có để đem chia đều cho mọi người. Chính lượng sản phẩm thừa được các thành viên có chức phận nhận (người chỉ huy dân binh, người chuyên trách lễ nghi, hoặc điều hành các công việc chung của thị tộc, bộ lạc) quản lý và đem ra dùng chung, sau lợi dụng chức phận chiếm một phần sản phẩm thừa khi chi cho các công việc chung.

-> Người lợi dụng chức quyền chiếm của chung -> tư hữu xuất hiện.

– Trong xã hội có người nhiều, người ít của cải. Của thừa tạo cơ hội cho một số người dùng thủ đoạn chiếm làm của riêng. Tư hữu xuất hiện trong cộng đồng bình đẳng, không có của cải bắt đầu bị phá vỡ.

– Trong gia đình cũng thay đổi. Đàn ông làm công việc nặng, cày bừa tạo ra nguồn thức ăn chính và thường xuyên Þ Gia đình phụ hệ xuất hiện.

– Khả năng lao động của mỗi gia đình cũng khác nhau.

  -> Xuất hiện  Giàu nghèo ->  giai cấp ra đời.

  => Công xã thị tộc rạn vỡ đưa con người bước sang thời đại có giai cấp đầu tiên – thời cổ đại.