Soạn bài Tự Tình lớp 11

Soạn bài: Tự Tình

I. Tác giả- tác phẩm.

1. Hồ Xuân Hương.

– Sống vào khoảng nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX.
– Xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, cha làm nghề dạy học.

– Là người đa tài đa tình, phóng túng, giao thiệp với những nhà văn nhân tài tử, đi rất nhiều nơi. Đường tình duyên của Hồ Xuân Hương nhiều éo le, ngang trái (hai lần lấy chồng đều làm lẽ).
– Sáng tác của Hồ Xuân Hương bao gồm thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm. Được mệnh danh là bà chúa thơ Nôm. Hồ Xuân Hương là một hiện tượng độc đáo trong lịch sử văn học Việt Nam.

2. Tác phẩm.

– Tự tình là bày tỏ lòng mình: có 3 bài tự tình, văn bản là bài tự tình II.
– Thể thơ: Đường luật thất ngôn bát cú.
– Chủ đề: “Bài thơ nêu lên một nghịch đối: duyên phận muộn màng, lỡ dở trong khi tác giả cứ lạnh lùng trôi qua. Nghịch đối này dẫn đến tâm trạng vừa buồn vừa tủi vừa phẫn uất nhưng cuối cùng vẫn đọng lại.

II. Đọc – hiểu văn bản

1. Hai câu thơ đầu:

Đêm khuya văng vẳng bóng canh dồn,
Trơ cái hông nhan với nước non.
– Thời gian: Đêm khuya
– Không gian: Tĩnh vắng. Nghệ thuật lấy động nói tĩnh qua âm thanh “văng vẳng” của tiếng trống cầm canh
– Chủ thể trữ tình là người phụ nữ một mình trơ trọi, đơn độc trước không gian rộng lớn (nước non) giữa đêm khuya, nghe tiếng trống canh dồn dập mà xót xa, cho “cái hồng nhan” bẽ bàng.
– Hình ảnh tương phản: “cái hồng nhan nước non” càng làm nổi bật sự cô đơn, lẻ loi của người phụ nữ.
 Hai câu cho thấy tác giả rất cô đơn, tâm trạng buồn đau bẽ bàng.

2. Câu 3, 4 (Hai câu thực)

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Nói thực hơn, rõ hơn hoàn cảnh, tâm trạng của nhà thơ.
– Tìm quên trong chén rượu nhưng say rồi lại tỉnh. Nỗi buồn không thể nào nguôi ngoai được. Cái vòng luẩn quẩn “Say lại tỉnh”, quên rồi lại nhớ càng rã rời chán chường.
– Ngắm vầng trăng thì trăng xế bóng, khuyết chưa tròn, Câu thơ là ngoại cảnh mà cũng là tâm cảnh tạo nên sự đồng nhất giữa trăng và người. Trăng sắp tàn mà vẫn chưa tròn- Tuổi xuân trôi qua mà hạnh phúc không trọn vẹn.
-> Gợi nỗi sầu đơn lẻ.

3. Câu 5,6 (2 câu luận)

Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
Đâm tọac chân mây, đá mấy hòn.
Hồ Xuân Hương tiếp tục hướng về ngoại cảnh, lấy thiên nhiên nói thay tâm trạng và thái độ của mình số phận
– Rêu và đá là những vật mềm yếu không cam chịu, không chấp nhận thấp yếu, bằng mọi cách chúng cố vươn lên, vượt những cản trở (mặt đất, chân mây) để chứng tỏ mình.
– Đó cũng chính là niềm phẫn uất, sự phản kháng của tác giả cá tính của Hồ Xuân Hương (bướng bỉnh ngang ngạnh), chứa đựng trong đó sự mạnh mẽ, quyết liệt, tìm mọi cách để vượt lên số phận.
Hai câu luận cho thấy Hồ Xuân Hương với sức sống mãnh liệt cả khi đau buồn nhất.

4. Câu 7 và 8.

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con !
Hồ Xuân Hương trực tiếp bộc lộ tâm trạng
– Khai thác cách dùng từ của Hồ Xuân Hương
+ Xuân “Mùa xuân, tuổi xuân”
+ Ngán: “Chán ngán ngán ngẩm”
+ Hai từ “lại” nghĩa là trở lại

->Trở lại quá nhanh, sợ nó quay trở lại.
-> Mùa xuân đi rồi trở lại đó là quy luật của tạo hóa. Nhưng mỗi mùa xuân qua mang theo một tuổi xuân của con người đi theo. Với những người trong cảnh “bóng xế” mà hạnh phúc “chưa tròn” như Hồ Xuân Hương thì thêm một lần xuân mỗi buồn càng lớn hơn. Tâm trạng này của Hồ Xuân Hương rất giống Chế Lan Viên trong đoạn thơ.

“Tôi có chờ đâu, có đợi đâu
Đem chi xuân đến gợi thêm sầu
Với tôi tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa đau khổ”.

– Cuối bài thơ là sự bộc bạch nỗi buồn chán của Hồ Xuân Hương Bằng nghệ thuật dùng từ thuần Việt theo cấp độ, tăng tiến của tác giả cho thấy nghịch cảnh éo le. Một người đa tài, đa tình như mà không được đón nhận khối tình tràn đầy mà chỉ được mảnh tình nhỏ bé, ít ỏi, đã vậy còn bị san sẻ để cuối cùng còn “tí con con”. Thật xót xa tội nghiệp.
Bài thơ vừa nói lên bi kịch, vừa cho thấy bản lĩnh khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương.