Các nước Đông Nam Á từ năm 1945 đến nay

Chuyên đề 2: CÁC NƯỚC Á – PHI- MĨ LA TINH TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY.

C. CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY.

1. Tình hình Đông Nam Á trước và sau năm 1945.

– Trước chiến tranh thế giới thứ hai, hầu hết các nước Đông Nam Á ( trừ Thái Lan ) là thuộc địa của thực dân phương Tây.

– Sau khi phát xít Nhật đầu hàng đồng minh , các dân tộc Đông Nam Á đã nhanh chóng nổi dậy giành độc lập dân tộc, lật đổ ách thống trị của Nhật, tiêu biểu như: VN, Lào, In-đô-nê-xi-a và nhiều nước khác cũng đều nổi dậy đấu tranh,giải phóng thoát khỏi ách thống trị của phát xít Nhật.

– Ngay sau khi chiến tranh  thế giới thứ hai kết thúc, các dân tộc ĐNA lại phải tiến hành kháng chiến chống những cuộc chiến tranh xâm lược trở lại của các nước đế quốc Anh, pháp, Mỹ và Hà Lan. Trải qua nhiều năm tháng chiến đấu gian khổ, đến nửa sau những năm 50 của thế kỷ XX, các nước Đông Nam Á lần lượt giành được độc lập dân tộc .

– Từ giữa những năm 50 của thế kỷ XX, trong bối cảnh “chiến tranh lạnh”, đế quốc Mỹ đã can thiệp vào các nước Đông Nam Á, làm cho tình hình ĐNA căng thẳng. tháng 9- 1954, Mĩ cùng Anh, Pháp thành lập khối quân sự ĐNA( SEATO), nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của của CNXH và đẩy lùi phong trào giải phóng dân tộc trong khu vực. Vì vậy quan hệ đối ngoại trong khu vực Đông Nam Á có sự phân hoá về đường lối:

       +  Một số nước trở thành đồng minh của Mỹ.

       +  Một số nước tiến hành đấu tranh chống Mỹ, giải phóg dân tộc như : Việt Nam, Lào, Căm Pu Chia.

        + Một số nước thi hành chính sách hoà bình trung lập, không tham gia vào khối quân sự xâm lược của các nước đế quốc.

2. Sự ra đời của tổ chức ASEAN(8/8/1967)

    Khu vực Đông Nam Á hiện nay gồm 11 quốc gia: Việt Nam, Cam-pu-chia, Lào, Thái Lan, Mi-an-ma, Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a, Xin-ga-po, Bru-nây, Phi-líp-pin và Đông Ti-mo.

a. Hoàn cảnh:

– Sau khi giành độc lập, đứng trước những yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước , nhiều nước Đông Nam Á chủ trương thành lập một tổ chức liên minh khu vực , nhằm cùng nhau hợp tác phát triển.

– Mặt khác để hạn chế ảnh hưỏng của các cường quốc bên ngoài đối với khu vực , nhất là khi cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Đông Dương ngày càng không thuận lợi, khó tránh khỏi thất bại.

– Ngày 8-8-1967, hiệp hội các nước Đông Nam Á  (ASEAN) được thành lập tại Băng Cốc Thái Lan  gồm 5 nước Thái Lan, In- đô- nê- xi-a, Ma- lai- xi-a, Phi-líp- Pin, Xin- ga- po.

b. Mục tiêu của ASEAN :

Thông qua bản tuyên bố Băng Cốc, mục tiêu hoạt động của tổ chức ASEAN là: phát triển kinh tế xã hội của đất nước thông qua những nỗ lực hợp tác chung giữa các nước thành viên trên tinh thần duy trì hoà bình và an ninh khu vực.

c. Nguyên tắc hoạt động:

    + Tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

    + Giải quyết mọi tranh chấp bằng phương pháp hoà bình.

    + Hợp tác cùng phát triển.

d. Quan hệ Việt Nam ASEAN:

    Quan hệ Việt Nam – ASEAN diễn ra phức tạp, có lúc hòa dịu, có lúc căng thẳng tùy theo sự biến động của quốc tế và khu vực, nhất là tình hình phức tạp ở Cam-pu-chia (Năm 1978, theo yêu cầu của Mặt trận Dân tộc cứu nước Cam Pu Chia, quân tình nguyện VN sang đây để giúp đỡ họ lật đổ chế độ Pôn- Pốt. Do sự kích động của một số nước lớn mà quan hệ giữa ba nước Đông Dương và các nước ASEAN trở nên căng thẳng).

    Từ cuối những năm 1980 của thế kỉ XX, ASEAN đã chuyển từ chính sách “đối đầu” sang ‘’đối thoại”, hợp tác với ba nước Đông Dương. Từ khi vấn đề Cam-pu-chia được giải quyết, Việt Nam thực hiện chính sách đối ngoại “Muốn là bạn với tất cả các nước”, quan hệ Việt Nam – ASEAN được cải thiện.

    Tháng 7/1992, Việt Nam tham gia Hiệp ước Ba-li, đánh dấu một bước mới trong quan hệ Việt Nam – ASEAN và quan hệ khu vực.

    Ngày 28/7/1995, Việt Nam gia nhập ASEAN, mối quan hệ Việt Nam và các nước trong khu vực là mối quan hệ trên tất cả các mặt, các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, khoa học, kĩ thuật… và nó ngày càng được đẩy mạnh.

3. Sự phát triển của tổ chức ASEAN.

    Trong giai đoạn đầu (1967-1975), ASEAN là một tổ chức non yếu, hợp tác trong khu vực còn lỏng lẻo, chưa có vị trí trên trường quốc tế.

    Sau cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân ba nước Đông Dương (1975), quan hệ Đông Dương-ASEAN được cải thiện, bắt đầu có những cuộc viếng thăm ngoại giao.

    Năm 1984, Bru-nây trở thành thành viên thứ sáu của ASEAN.

    Đầu những năm  90 của thế kỉ XX, thế giới bước vào thời kì sau “chiến tranh lạnh” và vấn đề Cam-pu-chia được giải quyết, tình hình chính trị ĐNA được cải thiện. Xu hướng nổi bật là mở rộng thành viên ASEAN.

    Ngày 28/7/1995, Việt Nam trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN.

    Tháng 9/1997, Lào và Mi-an-ma gia nhập ASEAN.

    Tháng 4/1999, Cam-pu-chia trở thành thành viên thứ 10 của tổ chức này.

    Lần đầu tiên trong lịch sử khu vực, 10 nước Đông Nam Á đều cùng đứng trong một tổ chức thống nhất. Trên cơ sở đó, ASEAN đã chuyển trọng tâm hoạt động sang hợp tác kinh tế, quyết định biến Đông Nam Á thành một khu vực mậu dịch tự do (AFTA), lập diễn đàn khu vực(ARF) nhằm tạo một môi trường hoà bình, ổn định cho công cuộc hợp tác phát triển của Đông Nam Á.

    Như vậy, một chương mới đã mở ra trong lịch sử các nước Đông Nam Á.

Hiện nay ASEAN đã chuyển trọng tâm hoạt động sang hợp tác và phát triển kinh tế, đồng thời xây dựng một khu vực ĐNA hoà bình ổn định để cùng nhau phát triển phồn vinh.

* Hoạt động của tổ chức ASEAN.

– 1992, thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA).

– 1994, thành lập diễn đàn kinh tế khu vực (ARF).

 Có thể nói rằng, cùng với sự phát triển của ASEAN, một chương mới đã mở ra trong lịch sử khu vực Đông Nam Á.