III. Sự thành lập các nước dân chủ nhân dân Đông Âu:
* Hoàn cảnh lịch sử.
Cuối năm 1944 sau khi đánh đuổi lực lượng phát xít đức ra khỏi lãnh thổ , hồng quân Liên Xô tiến hành truy kích lực lượng phát xít Đức đến thủ đô Béc –Lin có đi qua lãnh thổ của các nước Đông Âu, nhân dân Đông âu phối hợp với hồng quân LX nổi dậy khởi nghĩa , giành chính quyền, thành lập nhà nước dân chủ nhân dân.
* Sự ra đời các nước dân chủ nhân dân Đông Âu.
– Ba Lan ( 7- 1944) , Ru- Ma – Ni (8- 1944), Hung –ga-ri (4- 1945), Tiệp Khắc (5- 1945), Nam Tư (11- 1945), An ba ni (12- 1945), Bun ga ri ( 9- 1946), Cộng hòa dân chủ Đức ( 10- 1949).
* Hoàn thành dân chủ nhân dân.
+ Nhiệm vụ: Xây dựng chính quyền mới, cải cách ruộng đất, quốc hữu hoá các nhà máy xí nghiệp , ban hành các quyền tự do dân chủ.
IV. Những thành tựu của các nước Đông Âu trong xây dựng CNXH( từ năm 1950 đến đầu những năm 70 của thế kỷ XX):
* Nhiệm vụ:
Xoá bỏ sự bóc lột của giai cấp tư sản,đưa nhân dân vào con đường làm ăn tập thể, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm xoá bỏ tình trạng nghèo nàn lạc hậu , xây dựnh cơ sở vật chất kỹ thuật của chử nghĩa xã hội.
* Thành tựu:
+ Kinh tế : -Các nước Đông Âu từ những nước nông nghiệp lạc hậu trở thành nhữnh nước có nền ncông –nông nghiệp phát triển như An ba ni, Ba Lan, Bun ga ri, CHDCĐức( lấy vd để minh hoạ).
+ Chính trị: Đất nước ổn định , mọi âm mưu chống phá của chủ nghĩa đế quốc phản động bị dập tắt.
+ Văn hoá giáo dục: Các nước Đông Âu đều có nền văn hoá ,giáo dục phát triển.
V. Sự khủng hoảng và tan rã của CNXH ở Đông Âu :
– Từ cuối những năm 70, những năm 80 của thế kỷ XX , các nước Đông âu đã rơi vào khủng hoảng toàn diện với mức độ ngày càng ngay ngắt.
– Cuối những năm 80 của thế kỷ XX, khủng hoảng lên đến đỉnh cao khởi đầu là từ Ba lan và lan nhanh sang các nước khác. Quần chúng xuống đường mít tinh , biểu tình nổ ra liên tiếp đòi cải cách kinh tế,thực hiện đa nguyên về chính trị , tiến hành tổng tuyển cử tự do, mũi nhọn đấu tranh chĩa vào đảng cộng sản.
– Các thế lực thù địch trong và ngoài nước kích động nhân dân nổi dậy chống chính quyền . Trước tình hình đó ban lãnh đạo các nước Đông Âu buộc phải từ bỏ quyền lãnh đạo , thực hiện đa nguyên về chính trị, tiến hành tổng tuyển cử , kết quả các đảng đối lập , các thế lực chống chủ nghĩa xã hội thắng cử lên nắm chính quyền, chế độ XHCN ở Đông Âu không còn,hệ thống XHCN thế giới không còn tồn tại nữa.
VI. Nguyên nhân sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu.
+ Đã xây dựng mô hình CNXH chứa đựng nhiều khuyết tật và sai sót, không phù hợp với quy luật khách quan trên nhiều mặt: kinh tế, xã hội, thiếu dân chủ, thiếu công bằng.
+ Chậm sửa đổi trước những biến động của tình hình thế giới. Khi sửa chữa, thay đổi thì lại mắc những sai lầm nghiêm trọng: rời bỏ nguyên lý đứng đắn của CN Mác-Lênin.
+ Những sai lầm, tha hoá về phẩm chất chính trị, đạo đức của một số nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước ở một số nước XHCN đã làm biến dạng CNXH, làm mất lòng tin, gây bất mãn trong nhân dân.
+ Hoạt động chống phá CNXH của các thế lực thù định trong và ngoài nước.
+ Riêng ở Đông Âu thì đã rập khuôn mô hình xây dựng CNXH ở Liên Xô trong khi điều kiện ở Đông Âu khác xa so với Liên Xô.
Đây chỉ là sự sụp đổ của một mô hình CNXH chưa khoa học, chưa nhân văn, là một bước lùi của CNXH chứ không phải là sự sụp đổ của lý tưởng XHCN của loài người. Ngọn cờ của CNXH đã từng tung bay trên khoảng trời rộng lớn, từ bên bờ sông En-bơ đến bờ biển Nam Hải rồi vượt trùng dương rộng lớn đến tận hòn đảo Cu-Ba nhỏ bé anh hùng. Ngọn cờ ấy tuy có dừng tung bay ở bầu trời Liên Xô và một số nước Đông Âu nhưng dồi sẽ lại tung bay trên nhiều khoảng trời mênh mông xa lạ: Bầu trời Đông Nam Á, bầu trời châu Phi, Mỹ La-tinh và ngay cả trên cái nôi ồn ào, náo nhiệt của CNTB phương Tây… Đó là ước mơ của nhân loại tiến bộ và đó cũng là quy luật phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người.