3. Tình hình Đông Dương sau khi Nhật nhảy vào.
3.1. Pháp câu kết với phát xít Nhật để bóc lột nhân dân Đông Dương.
Trong thế bị suy yếu, thực dân Pháp đã chấp nhận nhượng bộ phát xít Nhật để duy trì quyền lợi của mình. Đồng thời Nhật cũng muốn tạm thời sử dụng bộ máy thống trị của Pháp để bóc lột nhân dân Đông Dương:
Ngày 23/7/1941, Pháp kí với Nhật hiệp ước phòng thủ chung Đông Dương, cho Nhật có quyền đóng quân trên toàn cõi Đông Dương.
Ngày 29/7/1941, Pháp đồng ý cho Nhật sử dụng tất cả các sân bay và cửa biển của Đông Dương vào mục đích quân sự.
Ngày 7/12/1941, Nhật lại buộc Pháp kí hiệp ước cam kết cung cấp lương thực, bố trí doanh trại…cho quân Nhật.
Pháp chấp nhận “mở cửa” cho các công ty của Nhật tự do đầu tư vào Đông Dương.
3.1.1. Những thủ đoạn bóc lột của Nhật
Sau khi buộc Pháp phải nhượng bộ, các công ty tư bản của Nhật bắt đầu đẩy mạnh đầu tư vào Đông Dương để khai thác nguồn tài nguyên và thị trường Đông Dương.
Mặt khác, Nhật gián tiếp bóc lột nhân dân ta bằng cách buộc Pháp phải cung cấp các nhu yếu phẩm (gạo, ngô,…) cho chúng, bắt dân ta phải nhổ lúa để trồng đay và thầu dầu…
3.1.2. Những hoạt động bóc lột tàn nhẫn của thực dân Pháp
Để đáp ứng những yêu cầu của Nhật và đảm bảo được quyền lợi như trước đây, thực dân Pháp đã sử dụng nhiều thủ đoạn tàn nhẫn để bóc lột nhân dân ta:
+ Thi hành chính sách “kinh tế chỉ huy”. Tăng mức thuế cũ, đặt thêm thuế mới… đồng thời sa thải công nhân, viên chức, giảm tiền lương, tăng giờ làm, kiểm soát gắt gao sản xuất và phân phối, ấn định giá cả.
+ Tiến hành thu mua thực phẩm mà chủ yếu là lúa gạo theo lối cưỡng bức với giá rẻ mạt, làm cho lương thực, thực phẩm thiếu thốn trầm trọng.
Chính sách vơ vét bóc lột của Pháp – Nhật đã đẩy dân ta tới cảnh cùng cực. Hậu quả là cuối năm 1944, đầu năm 1945, hơn 2 triệu đồng bào ta ở miền Bắc bị chết đói.
3.2. Nhật – Pháp ra sức chuẩn bị để hất cẳng nhau.
3.2.1. Những thủ đoạn chính trị lừa bịp của Nhật
Việc duy trì bộ máy thống trị của thực dân Pháp ở Đông Dương chỉ là một giải pháp tình thế nhằm che giấu bộ mặt xâm lược của phát xít Nhật. Đồng thời lợi dụng thực dân Pháp để đàn áp và bóc lột nhân dân Đông Dương.
Để thực hiện âm mưu thống trị Đông Dương lâu dài, phát xít Nhật đã tìm cách xây dựng lực lượng tay sai của mình để đi đến thành lập chính quyền tay sai nhằm thay thế và loại bỏ thực dân Pháp:
+ Ra sức tuyên truyền tư tưởng Đại Đông Á, thuyết “Đồng văn đồng chủng”, tuyên truyền văn hoá và sức mạnh vô địch của Nhật và hứa hẹn trao trả độc lập cho Việt Nam.
+ Bí mật tập hợp những phần tử bất mãn với Pháp như Trần Trọng Kim, Nguyễn Xuân Chữ… để lập ra hàng loạt các đảng phái thân Nhật: Đại Việt dân chính, Đại Việt quốc xã, Việt Nam ái quốc…
+ Nhật thành lập “Việt Nam phục quốc đồng minh hội” để tập hợp các tổ chức, đảng phái thân Nhật, chuẩn bị thành lập một chính phủ bù nhìn và “trao trả độc lập” cho Việt Nam, gạt Pháp ra khỏi Đông Dương.
3.2.2. Những thủ đoạn lừa bịp của Pháp
Trong tình thế lực lượng bị suy yếu, thực dân Pháp một mặt phải cam chịu khuất phục Nhật, phải thực hiện các yêu sách của Nhật, nhưng mặt khác chúng lại ngấm ngầm chuẩn bị lực lượng chờ cơ hội lật lại tình thế:
Thứ nhất, tiếp tục khủng bố, đàn áp cách mạng để giữ vững quyền thống trị.
Thứ hai, tiến hành nhiều chính sách lừa bịp để nhân dân ta lầm tưởng chúng là bạn chứ không phải là thù:
– Cho một số người Việt thuộc giới thượng lưu nắm giữ một số chức vụ quan trọng để ràng buộc họ với Pháp.
– Mở thêm một vài trường cao đẳng (khoa học, kiến trúc, nông lâm…), lập Đông Dương học xá cho một số sinh viên lưu trú nhằm dụ dỗ, lôi kéo thanh niên.
– Tạo điều kiện, hỗ trợ các nhóm thân Pháp đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, lôi kéo quần chúng ủng hộ chủ trương “Pháp – Việt phục hưng”, để chống lại phát xít Nhật…
– Khuấy động một phong trào thanh niên giả tạo nhằm lôi kéo thanh niên xa rời nhiệm vụ cứu nước.
Tháng 3/1945, quân đội Nhật ở Thái Bình Dương lâm vào tình trạng nguy cấp, Nhật đã đảo chính Pháp (9/3/1945) và độc chiếm Đông Dương.
3.3. Tình cảnh nhân dân Việt Nam dưới hai tầng áp bức Pháp – Nhật.
Chính sách áp bức, bóc lột nặng nề của Pháp và Nhật, đã đẩy các tầng lớp nhân dân nói chung, đặc biệt là nông dân, lâm vào cảnh khốn cùng:
Giai cấp nông dân: Do bị cưỡng bức thu mua lương thực, phải nhổ lúa trồng đay, sưu cao thuế nặng…, nên đời sống cơ cực. Phần lớn họ là nạn nhân của trận đói làm 2 triệu người chết cuối năm 1944 đầu 1945.
Giai cấp công nhân: Thường xuyên bị cúp phạt, giảm lương, tăng giờ làm…, trong khi đó giá cả sinh hoạt lại tăng cao làm cho cuộc sống của họ rất khó khăn.
Các tầng lớp tiểu tư sản: Cuộc sống bấp bênh, không có lối thoát.
Giai cấp tư sản và địa chủ: Phần lớn bị sa sút nghiêm trọng và phá sản hàng loạt.
Tóm lại: dưới hai tầng áp bức Pháp – Nhật, đời sống của đại đa số người dân Việt Nam lâm vào cảnh cùng bần, điêu đứng, lòng căm thù giặc của họ sôi sục, nếu được lãnh đạo, chắc chắn họ sẽ sẵn sàng đứng lên tiêu diệt kẻ thù.