Cuộc đời và sự nghiệp của Xuân Diệu
1. Vài nét về tiểu sử và con người :
Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu; sinh ngày 02/02/1916 tại Tùng Giản, Tuy Phước, Bình Định. Quê quán: Đại Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh. Xuân Diệu học tiểu học ở Quy Nhơn, sau đó ra học trung học ở Hà Nội và Huế.
Năm 1940, ông thi đỗ Tham tá thương chính và vào làm việc tại Mĩ Tho. Một thời gian sau ông xin thôi việc ra Hà Nội kết bạn thơ với Huy Cận.
Xuân Diệu tham gia cách mạng từ năm 1944. Sau Cách mạng tháng Tám, ông là Ủy viên Ban chấp hành Hội Văn hóa cứu quốc, thư kí tòa soạn Tạp chí Tiên phong. Ông là đại biểu Quốc hội khóa I; năm 1948 là Uûy viên Ban chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam. Từ 1957 cho đến khi qua đời, Xuân Diệu luôn được bầu vào Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam. Ông được kết nạp vào Đảng năm 1949. Năm 1983, ông được công nhận là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật nước Cộng hòa dân chủ Đức. Năm 1985, Xuân Diệu lâm trọng bệnh và qua đời.
2. Sự nghiệp văn học :
Di sản văn học đồ sộ với nhiều thể loại:
– Trước Cách mạng tháng Tám:
Trước Cách mạng tháng Tám, ông là nhà thơ được xem là “mới nhất trong các nhà Thơ Mới” (Hoài Thanh), là “người mang đến cho Thơ Mới nhiều cái mới nhất” (Vũ Ngọc Phan), ở thời kì này ông viết cả thơ lẫn văn xuôi. Trong đó đáng chú ý là: Thơ Thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945), Phấn thông ràng (1939), Trường ca (1945). Thơ ông giai đoạn này mang đến một cách nhìn mới, một bút pháp mới, một cảm xúc mới và bao trùm là một thứ Thơ Mới thực sự mới.Những cách tân của Xuân Diệu và phong trào Thơ Mới đã góp phần đổi mới thơ ca Việt Nam, thực sự đưa thơ ca Việt Nam chuyển sang phạm trù hiện đại. Xuân Diệu cũng là nhà thơ tình yêu với những cung bậc nồng nàn và tha thiết..
– Sau Cách mạng tháng Tám:
Sau Cách mạng tháng Tám, năng lực sáng tạo của Xuân Diệu không chỉ thể hiện ở thơ ca mà còn được bộc lộ ở nhiều thể loại văn học khác như bút kí, tiểu luận phê bình… ở thời kì này ông có nhiều tập thơ tiêu biểu như Riêng chung (1960), Mũi Cà Mau – cầm tay (1962), Một khối hồng (1964), Tôi giàu đôi mắt (1970), Thanh ca (1982)… Cũng như thơ ca ta trong giai đoạn này, thơ Xuân Diệu ca ngợi nhân dân đất nước, ca ngợi Đảng, Bác Hồ. Ông viết nhiều về xây dựng chủ nghĩa xã hội, về đấu tranh thống nhất nước nhà v.v… Nếu ngày xưa thơ ông bộc lộ lòng ham sống một cách thiết tha, một tình yêu rạo rực, thì ở giai đoạn này thơ ông vẫn là “sự sống chẳng bao giờ chán nản” của một hồn thơ gắn bó với nhân dân, đất nước.
Xuân Diệu cũng là người để lại nhiều công trình nghiên cứu và phê bình văn học có giá trị. Ông viết về hầu hết các nhà thơ cổ điển Việt Nam với những tiểu luận văn học đặc sắc. Ông viết về Nguyễn Trãi. Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu, Tú Xương, Tản Đà, Trần Tuấn Khải… Viết về ai ông cũng có cái nhìn mới, khám phá ra nhiều cái hay mà người trước chưa đề cập đến. Ông cũng viết nhiều về công việc làm thơ, về thơ của các nhà thơ trẻ, về những hiểu biết của ông về ca dao, dân ca.
+ Thơ : Ngọn quốc kì (1945), Hội nghị non sông (1946), Dưới vàng sao (1949), Sáng (1953), Mẹ con (1954), Ngôi sao (1955), Riêng chung (1960), Mũi Cà Mau- Cầm tay ( 1962), Khối hồng(1964), Hai đợt sóng (1967), Tôi giàu đôi mắt (1970), Hồn tôi đôi cánh (1976), Thanh ca (1982).
+ Văn xuôi, tiểu luận, phê bình : Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng (1958), Ba thi hào dân tộc (1959), Phê bình giới thiệu thơ (1960), Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Thi hào dân tộc Nguyễn Du (1966), Đi trên đường lớn (1968), Và cây dời mãi mãi xanh tươi (1971), Mài sắt nên kim (1977), Lượng thông tin và những kĩ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam ( hai tập; 1981& 1982).
+ Dịch và giới thiệu thơ nước ngoài của các nhà thơ như : Targo, Puskin, Maiacốpxki, Đimitrôva,…
Tóm lại:
Xuân Diệu là nhà thơ lớn của dân tộc, ông luôn là tấm gương lao động nghệ thuật bền bỉ, dẻo dai, giàu sức sáng tạo, đạt được nhiều thành tựu lớn trong sáng tác.
Xuân Diệu là người giới thiệu, phê bình thơ rất tinh tế và sắc bén. Ông có được những thành công lớn không chỉ ở việc giới thiệu, phê bình thơ cổ điển, thơ ca hiện đại, mà còn ở cả thơ ca nước ngoài. Ông thường chỉ ra được cái hay, sự độc đáo ở mỗi nhà thơ qua tác phẩm của họ.
Cuộc đời và thơ của Xuân Diệu gắn với quê hương đất nước. Ông có khát vọng hiến dâng sức lực và trí tuệ của mình cho dân tộc, ông không ngại khó khăn, gian khổ, hăng hái, nhiệt tình, đi khắp mọi nẻo đường Tổ quốc để phục vụ nhân dân … Chính vì lẽ đó, Xuân Diệu được tất cả độc giả trong nước yêu mến, ngưỡng mộ không chỉ ở thơ, mà còn ở tấm lòng say sưa và chân thành của ông trước cuộc đời.
a) Xuân Diệu và thơ
Xem xét hiệu ứng của thơ trong đời sống, những ấn tượng Xuân Diệu để lại trong lòng người không ai có thể bì kịp.
Thay cho công thức “gương mặt tiêu biểu” đã mòn tôi muốn nói Xuân Diệu là hiện thân của Thơ Mới. Nếu bây giờ chỉ cần gọi tên một nhà thơ trong Thơ Mới thôi thì gần như tất cả sẽ gọi Xuân Diệu.
* Xuân Diệu và Thơ Mới
Xuân Diệu thường nói ông mang trong mình quê hương thống nhất. “Cha đàng ngoài má ở đàng trong” – cái lý của ông thật cụ thể.
Mượn cách nói ấy khi xem xét sang lĩnh vực thơ tôi cũng muốn nói rằng ông mang trong mình nền thơ Việt Nam thế kỷ XX.
Nửa đầu thế kỷ thơ Việt có chuyển đổi về mặt cơ cấu từ mô hình kiểu trung đại chuyển sang một mô hình hiện đại. Khi thơ như một cơ cấu đã ổn định từ sau 1945 cái định hướng rõ nhất là chuyển đổi chức năng để phục vụ xã hội. Trong cả hai cuộc vận động người ta đều thấy Xuân Diệu là một trong những tên tuổi được nhắc nhở nhiều nhất.
Trong phạm vi Thơ Mới ông không có những bài thơ coi là mở đầu như Phan Khôi. Ông không có vai trò người khai phá đầy tài năng như Thế Lữ, không có những tác phẩm chín như Huy Cận. Song nói đến thời đại này là phải nói đến ông. Qua ông thấy cả sự vận động của Thơ Mới.
Tuy cùng nằm trong khuôn khổ hiện đại hóa văn học song những gì diễn ra trong thơ tiền chiến khác hẳn trong văn xuôi. Với văn xuôi các nhà văn của ta bằng lòng làm người học trò nhỏ của văn học Pháp. Thơ thì khác. Ban đầu người ta không chịu. Theo Phạm Quỳnh kể có những ông đồ tự hỏi: “Bên Tây cũng có thơ à?”
Quan niệm như vậy cho nên trong thực tế đồ thị vận động cũng khác nhau. Ở văn xuôi mọi chuyện từ từ không có đột biến. Thơ cũ sau một hồi chống chọi như là xảy ra tình trạng “vỡ trận”. Kết quả là có Thơ Mới náo động một thời.
Có thể tìm thấy bóng dáng cuộc vận động này trong bước đi của Xuân Diệu. Ông đến trong tư thế khẳng định. Ban đầu Thơ Mới làm cho người ta ngỡ ngàng? Thì Xuân Diệu làm cho chúng ta ngỡ ngàng. Rồi cuối cùng chúng ta thấy Thơ Mới gần với ta? Thì Xuân Diệu đã được cả một thời say đắm.
Xuân Diệu là tất cả cái hay cái dở của Thơ Mới. Là sự cởi mở và tham vọng của con người đương thời. Là hào hứng đi ra với thế giới. Nhưng cũng là nông nổi cạn cợt là nhanh chóng chán chường và bế tắc.
Nếu cần nói gọn một câu về vai trò của Xuân Diệu trong Thơ Mới thì nên nói gì?
Hoài Thanh là người đầu tiên cho rằng “Xuân Diệu mới nhất trong các nhà Thơ Mới”. Ở Sài Gòn năm 1967 trong tập Bản lược đồ của văn học Việt Nam (Ba thế hệ của nền văn học mới) Thanh Lãng cũng viết một câu tương tự. Cho đến nay công thức đó vẫn được nhiều người nhắc lại.
Giữa các phong cách của Thơ Mới Xuân Diệu là một cái gì vừa phải hợp lý ông vốn có cái dễ dàng để đến với đám đông trong văn chương cũng như trong cuộc đời. Thế Lữ hơi cổ. Trong thơ Thế Lữ người ta vẫn cảm thấy một cái gì hơi già hơi cũ mắt nhìn về cái mới chứ chân chưa đặt tới cái miền mới mẻ đó. Mong muốn kéo nhà thơ này đi tới nhưng con người ông không theo kịp. Lưu Trọng Lư cũng vậy mà lại ngả sang mơ mộng xa xôi. Huy Cận chậm rãi khoan thai đậm chất văn hóa và Huy Cận như già trước tuổi nữa. Về độ chín của thơ Xuân Diệu không bằng Huy Cận. Song sự trẻ trung làm cho Xuân Diệu có sự hấp dẫn hơn phổ biến hơn nhiều. Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên ăn nhiều ở sự hướng thượng suy tư độc đáo. Các ông có cái gì đó mà người bình thường khó với tới. Họ nhìn theo các ông mà ngại.
Xét về ảnh hưởng với các thế hệ sau vai trò của Xuân Diệu cũng rất lớn. Như ở thế hệ những người sinh khoảng 40 của thế kỷ trước, những Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Phạm Tiến Duật. Nếu đặt ra một hàng những Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử thì trong sự khác nhau rất rõ họ vẫn gần với Xuân Diệu hơn cả số người nằm cùng một trục dọc với Xuân Diệu khá đông đảo. Xuân Diệu như hoa hồng trong một vườn hoa loại nào cũng đẹp. Như một thứ cơm tẻ vừa với mọi người. Đi đến một tổng hợp khái quát nhất Hoài Thanh ở cuối bài tổng luận về Thơ Mới bảo Xuân Diệu là “nhà thơ đại biểu đầy đủ nhất cho thời đại”.
* Hồn thơ của một con người Âu hóa và mang những mỹ cảm hiện đại
Xuân Diệu trước hết đại biểu cho những con người tiếp xúc với văn hóa phương Tây ngay từ nhà trường làm nên một thứ nhân tố mới hình thành trong xã hội. Nhiều người đã nói về điều này mấy ghi nhận dưới đây chỉ là một khía cạnh nhỏ.
Ông là con người của ham muốn say đắm muốn sống hết mình. Chỉ cần đọc một câu thơ:
“Anh nhớ tiếng anh nhớ hình anh nhớ ảnh
Anh nhớ em anh nhớ lắm em ơi”
Người ta đã biết ngay nó không thể có ở nhà thơ cổ điển mà nó phải thuộc về một nhà thơ hiện đại.
Mặc dù có những bài tuyệt bút song Xuân Diệu thường vẫn để lại ấn tượng có chỗ sượng chưa chín chưa đều tay. Ông là người rất có ý thức mà cũng là rất nhạy cảm khi bênh vực cho cái dang dở. So sánh ca dao Nam Trung bộ và ca dao miền Bắc ông nói rằng ca dao miền Bắc quá trau chuốt quá hoàn chỉnh trong khi ca dao Nam Trung bộ trần trụi thô mộc nên dễ gần. Có lần nhận xét về một bài thơ Xuân Diệu bảo khi người ta cảm động quá người ta có gì đó run rẩy lúng túng. Trong những trường hợp này Xuân Diệu đã biện hộ cho mình. Chính ở cái vẻ vội vàng hấp tấp dở dang chưa thành này mà Xuân Diệu gắn với con người đương thời.
Nhưng không chỉ có thế. Không chỉ có hồn nhiên tuổi trẻ mà càng về sau Xuân Diệu càng tỏ ra sống hết với cái đã đầy của cuộc sống. Bài Hy mã lạp sơn là một cách ướm thử sự vượt lên cái thông thường tự làm khác mình đi và đẩy suy nghĩ của mình tới cùng tới cái tuyệt đối. Nhưng một lần tới rồi thì ông biết ngay là không bao giờ nên trở lại nữa. Biết điều tội nghiệp run rẩy thiết tha Xuân Diệu là chính mình hơn trong Lời kỹ nữ.
Sự khác nhau giữa Thơ cũ và Thơ Mới bắt đầu từ sự đổi khác của tâm lý con người của cách xúc động… và điều này đã được nhiều người như Lưu Trọng Lư Hoài Thanh diễn tả sâu sắc. Mối quan hệ giữa lý trí và cảm xúc là một vấn đề lớn của con người hiện đại. Hồi 1961 nhân tuyển thơ 15 năm sau Cách mạng Chế Lan viên nói như một câu buột miệng “Xuân Diệu cần hồn nhiên hơn và Tế Hanh phải bớt tự nhiên đi”. Tôi đọc và tưởng là về già Xuân Diệu mới vậy. Sau đọc lại thấy cái cách sống và làm việc theo lý trí này có từ Xuân Diệu hồi Thơ Mới. Xét trên toàn cục Xuân Diệu đã là một con người nhất quán những năm cuối đời chỉ tô đậm những nét vốn có của ông lúc trẻ. Và đó chính là dấu hiệu làm chứng cho sự có mặt của nền văn hóa mà ông tiếp nhận từ nhỏ.
Nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn gần đây nói rằng con người ông có cả văn hóa Việt Nam lẫn văn hóa Mỹ. Trong Xuân Diệu cái yếu tố Mỹ được thay bằng văn hóa Pháp. Cố nhiên là cách kết hợp những yếu tố khác nhau ở người này không bao giờ giống như ở người khác nhưng họ đều là hiện tượng đa văn hóa.
* Thơ tám chữ thơ bảy chữ
Trên phương diện hình thức nghệ thuật thơ so với các nhà Thơ Mới khác Xuân Diệu càng để lại ấn tượng riêng về một cái gì vừa miệng với số đông nghĩa là rất phổ biến.
Sáng tạo của Thơ Mới trên phương diện thể thơ gồm hai phần: một là đưa thể tám chữ lên mức hoàn chỉnh và thứ hai là có những cách tân mới đối với các thể cũ như thơ bảy chữ thơ lục bát.
Sở dĩ đọc Thế Lữ ta cảm thấy một cái gì cũ cũ bởi vì ngoài Nhớ rừng các bài tám chữ khác của ông để lại ấn tượng nặng nề do sự xâm nhập của yếu tố văn xuôi. Ở các bài như Đi giữa đường thơm. Nhạc sầu của Huy Cận, Nhớ con sông quê hương của Tế Hanh chúng ta thấy thơ tám chữ tự nhiên như một sản phẩm thuần Việt. Mà cái đó đến sớm với Xuân Diệu. Những bài như Tương tư chiều, Vội vàng, Hoa đêm của ông cùng với Lời kỹ nữ, Hy mã lạp sơn vừa nói ở trên là những sáng tác hoàn thiện.
Hoài Thanh rất tinh khi bảo thơ tám chữ của Xuân Diệu có nguồn gốc ở ca trù. Cảm giác gần gũi có được là do cái hồn thơ một cái gì thanh thoát mà lại hơi lẳng lơ tinh nghịch. Mặt khác là hơi thơ biểu hiện ở độ dài. Tính số câu của một bài thơ trong khi Tiếng địch sông Ô của Huy Thông làm chúng ta ngợp thì các bài tám chữ của Xuân Diệu và những bài vừa nhắc trên của Huy Cận Tế Hanh… cũng gần gũi hơn hẳn.
Một đóng góp khác của Xuân Diệu trong thể thơ bảy chữ những bài gồm ba, bốn khổ nó là một hơi thơ mạnh đi như một lát dao sắc. Tản Đà không có bài thơ nào sử dựng tứ tuyệt như vậy. Trong số 47 bài của Mấy vần thơ của Thế Lữ chỉ thấy có một bài mang tên Yêu là cũng gồm ba khổ như thế này. Nhưng đây là một bài thơ rất ít người nhớ. Còn với Xuân Diệu chúng ta thấy hàng loạt: Nguyệt cầm, Nụ cười xuân, Trăng, Huyền Diệu, Gặp gỡ, Yêu, Tình trai, Đây mùa thu tới, Ý thu, Hẹn hò, Đơn sơ.
Tôi chợt nhớ tới thể sonnet của Pháp (Từ sonnet có nguồn gốc từ tiếng Ý sonetto (từ một bài thơ Old Provençal với thể loại sonet có nguồn từ chữ bài hát son, từ gốc sonus nghĩa là âm thanh). Đến thế kỷ thứ mười ba sonnet được chuẩn hóa thành một bài thơ mười bốn dòng với một luật gieo vần nghiêm ngặt và một cấu trúc nhất định.) và muốn giả thiết rằng ở những bài thơ nói trên Xuân Diệu đã kết hợp giữa thơ Pháp và thơ dân tộc. Ông Việt hóa sonnet từ nền văn hóa mà ông mới tiếp nhận và mang lại cho nó một âm hưởng phương Đông bằng cách lai tạo nó với thất ngôn tứ tuyệt. Giờ đây loại thơ gồm ba hay bốn khổ tứ tuyệt – 12 hoặc 16 câu bảy chữ – đã là một cấu trúc cổ điển. Thơ tình của Xuân Diệu sau 1945 thường trở lại với thể này
“Nguyện Hoa nở sớm
Tình yêu san sẻ
Ngược dòng sông Đuống”
* Thơ của Xuân Diệu mang cái mới mẻ đến từ hội nhập
Nhớ lại khi Xuân Diệu mới xuất hiện Hoài Thanh thú nhận:
“Bây giờ khó mà nói được cái ngạc nhiên của làng thơ Việt Nam hồi Xuân Diệu đến. Người đã tới giữa chúng ta với một y phục tối tân và chúng ta đã rụt rè không muốn làm thân với con người có hình thức phương xa ấy. Nhưng rồi ta cũng quen dần vì ta thấy người cùng ta tình đồng hương vẫn nặng”.
Cái tình đồng hương nói ở đây gồm hai yếu tố:
Một là những yếu tố thuần Việt. Đã nhiều người nói tới cái phần thi liệu Việt ở Xuân Diệu từ “Đã nghe rét mướt luồn trong gió Đã vắng người sang những chuyến đò” tới “Hoa bưởi thơm rồi đêm đã khuya” hoặc “Con cò trên ruộng cánh phân vân”.
Hai là những yếu tố mượn từ đời sống và văn hóa Trung Hoa đã được Việt hóa. Cái yếu tố này vẫn thấy ở nhiều nhà văn tiền chiến từ những ông già thả thơ đánh thơ ở Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân tới mấy người khách ở Phố Cẩm Giàng và Chú khách bán mằn thắn của Thạch Lam…
Bấy lâu ta cứ ngỡ ở Xuân Diệu chỉ có Rimbaud với Verlaine hóa ra ta nhầm.
Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ đọc lại báo Ngày nay 1938 còn dẫn ra cả một đoạn Xuân Diệu ca ngợi mùa thu “mặc dầu ở bên tây vẫn có mùa thu thiên hạ vẫn cứ thấy mùa thu là ở bên Tàu. Mùa thu cũng đồng một quê quán với Tây Thi với nàng Tây Thi quá xa nên quá đẹp”.
Trong cả Thơ thơ lẫn Gửi hương cho gió cái chất Trung Hoa này xuất hiện ở nhiều dạng. Trong vốn từ ngữ. Trong cái nhịp thơ tứ tuyệt nói ở trên. Và trong thi liệu:
“Tôi yêu Bao Tự mặt sầu bi
Tôi yêu Ly Cơ hình mơ màng
Tôi tưởng tôi là Đường Minh Hoàng
Trong cung nhớ nàng Dương Quý Phi.”
Có cả một bài mang tên Mơ xưa nhắc lại những Gió liễu chiều còn nhớ kẻ dương quan. Yếu tố Trung Hoa cổ điển ở đây là một bộ phận của yếu tố Việt Nam. Nước Việt Nam trong thời gian. Nước Việt Nam với cái vẻ quý tộc tinh thần… Tất cả lại hiện diện. Xin nói tiếp về Nguyệt cầm. Trăng ở đây được gọi là nguyệt đàn gọi là cầm. Nguyệt và trăng đàn và cầm cùng tồn tại song song. Cái hồn hiện đại nhập vào cảnh cũ Linh lung ánh sáng bỗng rùng mình. Nhưng trăng và đàn lại là những motip của thơ cổ phương Đông. Còn chữ linh lung với nghĩa ánh sáng chấp chới thì không biết có phải lấy từ bài Ngọc giai oán của Lý Bạch (khước há thủy tinh liêm – linh lung vọng thu nguyệt) chỉ biết sau Xuân Diệu không ai dùng nó nữa và các từ điển tiếng Việt mới in nửa sau thế kỷ XX chỉ ghi lung linh chứ không còn ghi linh lung.
Với bài viết kinh điển Một thời đại trong thi ca Hoài Thanh đã sớm cảm thấy cái mới ở Xuân Diệu nói riêng và Thơ Mới nói chung là đến từ hội nhập. Gần đây nhà thơ Hoàng Hưng (bài Thơ Mới và thơ hôm nay) phát hiện thêm. Ông bảo: “thơ Pháp thế kỷ XIX đã thúc đẩy Huy Cận Xuân Diệu tìm ra những ý vị lãng mạn của thơ Đường mà suốt một thế kỷ trước đó các vị túc nho đã không cảm nhận nổi mà chỉ nhai cái bã niêm luật”. Tức là nhờ hội nhập hôm nay mà ta phát hiện lại thành tựu của hội nhập hôm qua. Ta được làm giàu lên nhiều lần hơn là ta tưởng.
Hơn thế nữa hội nhập không phải chỉ có một chiều là hướng ngoại hội nhập còn là quay trở về phát hiện lại bản thân và nhận diện lại những yếu tố nội sinh. Nói cách khác nhờ hội nhập mà cốt cách của dân tộc được phát hiện.
Xuân Diệu đã làm công việc này một cách có ý thức. Ông có riêng một bài viết mang tên Tính cách An Nam trong văn chương (báo Ngày nay 28-1-1939) ở đó ông nói rằng “Trong lòng An Nam của chúng ta vẫn có những phần nhiều những ý những cảm giác mà người Tây có. Xưa kia ta không nói là vì ta không ngờ; bây giờ cái não khoa học của Âu Tây đã cho biết rằng ta có vẫn có đã lâu những của cải chôn giấu trong lòng thì sao ta không nói”.
* Kết
Không phải là thơ Việt Nam sau 1945 không có những đổi mới về hình thức song một sự thay đổi có tính chất bước ngoặt như hồi 1932-1941 không còn nữa. Nhu cầu của xã hội lúc này là tận dụng sự phát triển đã có từ Thơ Mới để hướng thơ vào các hoạt động tuyên truyền giáo dục quần chúng. Ngay ở Sài Gòn trước 1975 nơi sự hội nhập với thế giới còn được làm trong lặng lẽ thì thơ vẫn không tạo được những bước nhảy đáng kể. Nổi lên trên bề mặt thơ sau 1945 vẫn là sáng tác của các nhà Thơ Mới: Huy Cận, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, Tế Hanh, ấy là không kể một lớp nhà thơ trẻ mới hình thành tất cả mang lại cho Thơ Mới một sự hồi sinh một đỉnh cao thứ hai.
Trên hướng phát triển này Xuân Diệu tiếp tục vị trí hàng đầu của mình. Năng lực của ông không còn hướng vào việc tìm tòi cái mới; có cảm tưởng với ông tất cả đã đủ vấn đề bây giờ chỉ là tìm cách khai thác tận dụng cái đã có. Mà về việc này thì từ bản tính “tay hay làm lụng mắt hay kiếm tìm” ông có cả từ sự thành thạo tức thói quen lao động siêng năng tới sự nhạy cảm biết tìm ra những phương án tối ưu trong lao động.
Thơ Xuân Diệu những năm cuối đời gợi cho ta cảm giác một trái cây không còn được tiếp nhựa sống từ toàn thân mà chỉ tự chín thời gian chín lại kéo quá dài nên – nói như dân gian vẫn nói – chín rụ chín rị tức có cả cái phần đã đầy nát vỡ lữa ra. Nhưng ở chỗ này nữa lại càng thấy tính chất đại diện toàn quyền của Xuân Diệu với Thơ Mới. Người ta không thể đòi hỏi quá nhiều ở một người. Đặt trên cái nền chung của lịch sử thì vẫn thấy ông đứng sừng sững ở giai đoạn chuyển đổi của nền thơ Việt Nam như một thách thức và một điểm đối chiếu.