Soạn bài Đập đá ở Côn Lôn

Soạn bài Đập đá ở Côn Lôn

( Phan Châu Trinh)

Câu 1. Công việc đập đá ở Côn Lôn là một công việc lao động cưỡng bức khổ sai hết sức nặng nhọc: trên hòn đảo trơ trọi, giữa cái nắng chói chang và gió biển khô khan. Trong chế độ nhà tù khắc nghiệt, người đi đày phải làm công việc lao động này cho đến khi kiệt sức và không ít người đã gục ngã trên mảnh đất này.


Câu 2. Bốn câu thơ đầu cố 2 lớp nghĩa
– Tìm hiểu thế đứng của con người giữa đất trời:
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
Đó là lòng kiêu hãnh, là ý chí khẳng định, là khát vọng hành động mạnh liệt. Con người như thế lại đường hoàng “đứng giữa” đất trời Côn Lôn, “đứng giữa” biển rộng non cao, đội trời đạp đất, tư thế hiên ngang, sừng sững! Từ câu thơ toát lên một vẻ đẹp hùng tráng.

– Công việc đập đá được miêu tả: Đó là sức mạnh to lớn của con người khổng lồ: khí thế hiên ngang “lừng lẫy” như bước vào một mặt trận chiến đấu mãnh liệt, hành động thì quả quyết, mạnh mẽ phi thường: “xách búa”, “ra tay”; sức mạnh thật ghê gớm, gần như thần kì: “làm cho lở núi nước non”, “đánh tan năm bảy đồng”, “đập bể mấy trăm hòn” . Điều thú vị là ở chỗ tác giả vẫn bám sát vào công việc thực là dùng búa để khai thác đá từ hòn núi ngoài Côn Đảo.
Nhận xét: Đây là khẩu khí của một người xem thường mọi thử thách gian nan, nói về một công việc chinh phục thiên nhiên dũng mãnh và đầy khí phách của một dũng sĩ thần thoại. Giọng thơ khẩu khí ngang tàng này cũng khá phổ biến trong thơ ca truyền thống.
Kết luận: Tác giả đã khắc họa hình ảnh người tù cách mạng thật ấn tượng, trong tư thế ngạo nghễ vươn cao ngang tầm vũ trụ, đã biến một công việc lao động khổ sai thành một cuộc chinh phục dũng mãnh của con người có sức mạnh thần kỳ. Và như vậy, bốn câu thơ đầu đã dựng được một tượng đài uy nghi về con người anh hùng với khí phách hiên ngang, lẫm liệt sừng sững giữa đất trời.

Câu 3. Nếu bốn câu thơ đầu là sự miêu tả kết hợp với biểu cảm, thì đến bốn câu thơ cuối này tác giả đã trực tiếp bộc lộ cảm xúc và suy nghĩ của mình. Đây là khẩu khí ngang tàng của người anh hùng không chịu khuất phục hoàn cảnh, xem thường mọi thử thách gian nan, luôn giữ vững niềm tin và ý chí chiến đấu sắt son. Vẻ đẹp tinh thần này kết hợp với tầm vóc lẫm liệt, oai phong trên đã tạo nên một hình tượng giàu chất sử thi và gây ấn tượng mạnh.
Các thức biểu hiện cảm xúc để làm nổi bật chí lớn, gan to của người anh hùng, tác giả đã đặt nó trong thế tương quan đối lập với những thử thách lớn lao phải chịu đựng.

Ở câu 5 – 6 là sự đối lập giữa những thử thách gian nan (tháng ngày, mưa nắng: chỉ những gian khổ phải chịu đựng không phai một sớm, một chiều mà dài dặc qua nhiều năm tháng) với sức chịu đựng dẻo dai, bền bỉ (thân sành sỏi) và ý chí chiến đấu sắt son của người chiến sĩ cách mạng (càng bền dạ sắt son).
Ở câu 7 – 8 là sự đối lập giữa chí lớn của những con người dám mưu đồ sự nghiệp cứu nước vào những năm đầu thế kỷ XX, một công việc mà không phải ai cũng tin sức người có thể làm được (phân tích hình ảnh bà Nữ Oa đội đá vá trời) với những thử thách phải gánh chịu trên bước đường chiến đấu, được xem như “việc con con” (Sự thực thi bản án mà Phan Châu Trinh đang phải mang và hoàn cảnh khắc nghiệt mà ông đang phải chịu đựng đâu có phải là “việc con con”, có điều, đặt bên cái chí lớn, gan to ấy thì quả nó chẳng có gì đáng phải kế đến).

Câu 4. Qua hai bài thơ Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông và Đập đá ở Côn Lôn cho chúng ta thấy:
– Cả hai bài thơ đều là khẩu khí của những bậc hào kiệt anh hùng khi sa cơ, lỡ bước rơi vào vòng tù ngục.
– Vẻ đẹp hào hùng lãng mạn của họ biểu hiện trước hêt ở khi phách ngang tàng lẫm liệt ngay cả trong thử thách gian lao có thể đe dọa đến tính mạng. Vẻ đẹp ấy còn biểu hiện ở ý chí chiến đấu và niềm tin không dời dối đổi vào sự nghiệp của mình (Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp).