Từ thực tế giảng dạy, chúng tôi nhận thấy có nhiều con đường để tiếp cận với những giá trị của tác phẩm, trong đó có một phương pháp khá đơn giản và hữu hiệu là tiếp cận từ chính nhan đề của tác phẩm.
Nhà thơ Xuân Diệu đã có lần phát biểu đại ý các nhà văn khi đặt tên cho tác phẩm cũng trăn trở như cha mẹ đặt tên cho con. Thật vậy, quá trình sáng tạo cũng “mang nặng đẻ đau”, khi “đứa con tinh thần” ra đời nhà văn cũng có niềm vui sướng, hạnh phúc như người mẹ người cha vừa có thêm một đứa con; rồi “đứa con tinh thần” ấy còn khiến nhà văn phải bận tâm nhiều, chăm chút sau mỗi lần tái bản. Và có “đứa con tinh thần” đem lại cho cha mẹ vinh quang, hạnh phúc, nhưng cũng có không ít nhà văn lao đao khốn khổ vì “đứa con tinh thần” của mình.
Trong các đề thi tuyển sinh vào đại học, cao đẳng và thi tốt nghiệp THPT cũng đã không ít lần đề cập ý nghĩa nhan đề tác phẩm. Ví dụ: “Giải thích ý nghĩa nhan đề “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành”; “Truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao đã mấy lần đổi tên? Ý nghĩa của những tên gọi ấy?”, “Giải thích ý nghĩa nhan đề và lời đề từ bài thơ “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên…
Nhan đề của tác phẩm là một tín hiệu nghệ thuật quan trọng, nhưng một số GV vẫn còn coi nhẹ, bỏ qua yếu tố này. Chúng tôi trong quá trình giảng dạy luôn lưu ý học sinh tìm hiểu ý nghĩa nhan đề của tác phẩm. Đây là một cách hay để tạo sự chú ý, kích thích hứng thú của các em. Đối với những nhan đề đặc sắc, có ý nghĩa bao quát chủ đề của tác phẩm như “Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh” của Nguyễn Khuyến, “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, “Đôi mắt” của Nam Cao, “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, “Bác ơi!” của Tố Hữu..chúng tôi luôn dành một lượng thời gian thích đáng để hướng dẫn học sinh giải mã. Ngay cả những nhan đề có vẻ bình thường như “Tấm Cám” (truyện cổ tích), chúng tôi cũng tìm ra được thông tin có ý nghĩa. Ví dụ: Tại sao tác giả dân gian lại đặt nhan đề là “Tấm-Cám” chứ không đặt nhan đề “Tấm-Dì ghẻ”? (vì xung đột chủ yếu của tác phẩm là xung đột giữa Tấm và Cám, chứ không phải là Tấm và dì ghẻ); rồi tên Tấm và Cám có ý nghĩa gì? (là cách đặt tên con cái phổ biến của người xưa, đặt tên theo những vật dụng bình thường trong cuộc sống-“cái kèo cái cột thành tên”; tấm và cám đều là sản phẩm từ hạt lúa, hàm ý một người cha sinh ra, song lại khác nhau về chất: tấm đáng quý hơn cám…
Như vậy, chỉ một nhan đề có vẻ bình thường đã gợi mở ra bao điều thú vị, sâu sắc.
“Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài) cũng là một nhan đề có vẻ bình thường. Song thực ra không phải là không có gì để khai thác: Mị và A Phủ vốn là những người xa lạ, nhưng do một cảnh ngộ đặc biệt, họ đã đến với nhau và trở thành “Vợ chồng A Phủ”, quá trình trở thành “vợ chồng” của họ là một sự vươn lên từ bóng tối đến ánh sáng; hoàn cảnh đen tối dưới ách áp bức của thống lý Pá Tra khiến họ thành vợ chồng, song chỉ có cách mạng mới đem lại hạnh phúc bền vững cho họ; điều ấy lí giải vì sao cặp vợ chồng ấy đến với cách mạng và trung kiên với cách mạng.
Với tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, người đọc đã mê ngay từ cái nhan đề. Đó là một nỗi niềm, một sự vương vấn, một cảm xúc bâng khuâng…mang một vẻ đẹp đầy chất thơ. Với nỗi niềm mê say ấy, tác giả đã dẫn dắt người đọc đi đến tận cùng của tri thức văn hóa và thẩm mĩ đã tạo nên dòng sông Hương, cái nôi của văn hóa Huế.
“Vợ nhặt” cũng là một nhan đề độc đáo. “Vợ nhặt” nghĩa là gì? Sao tác giả không gọi là “Nhặt vợ”? Cái khác biệt là ở chỗ: “nhặt vợ” là một động từ, còn “vợ nhặt” là một danh từ, chỉ một “loại” vợ (bên cạnh các “loại” vợ khác như: vợ đẹp, vợ trẻ, vợ ở quê…chẳng hạn). Và đọc xong tác phẩm, người đọc mới thấy hết được tính chất vừa hài hước, vừa xót xa, bi thảm trong cái nhan đề ấy.
Ngay cả cách viết của tác giả đối với từng nhan đề cũng cần được lưu ý. Ví dụ Nguyễn Tuân đã viết hoa chữ “Sông” trong tác phẩm “Người lái đò Sông Đà”, bởi vì theo cách nhìn của ông, sông Đà không chỉ là một con sông bình thường mà đã trở thành một “nhân vật” đặc biệt, có cá tính, phẩm cách riêng; và trong tác phẩm, nhà văn đã nhiều lần sử dụng thủ pháp nhân hóa để xây dựng hình tượng. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng đã viết hoa chữ “Đất Nước”, thể hiện hàm ý tôn kính Tổ quốc thiêng liêng. Đối với những tác phẩm thơ có nhan đề là “Vô đề (“Không đề”) cũng không có nghĩa là không có gì để nói. Thực ra đây là một thủ pháp dùng cái “không” để diễn tả cái “có”, cái vô cùng, một thủ pháp gợi mở tâm tư…Mặt khác nhan đề kiểu này thể hiện tình huống sáng tạo ngẫu nhiên, tức cảnh sinh tình, cũng là một tín hiệu rất đáng lưu ý.
Nhan đề tác phẩm cũng phản ánh quan niệm văn hóa, tư tưởng của mỗi thời. Tác phẩm văn học trung đại thường có nhan đề thể hiện thể loại đặc điểm thể loại: “Hịch tướng sĩ văn” (Trần Quốc Tuấn), “Bình Ngô đại cáo” (Nguyễn Trãi), “Long thành cầm giả ca” (Nguyễn Du), “Tỳ bà hành” (Bạch Cư Dị)…Có nhiều tác phẩm có chung một nhan đề như “Cảm hoài”, “Thuật hoài” (đều có nghĩa là “tỏ lòng’’), thể hiện tính chất “phi ngã”, “vô ngã” của thi pháp văn học trung đại. Đến thời Thơ mới lãng mạn, nhan đề tác phẩm thể hiện dấu ấn cái Tôi rất rõ nét. Nhiều người đã phân tích chữ “đây” trong các tác phẩm “Đây thôn Vĩ Giạ” của Hàn Mặc Tử và “Đây mùa thu tới” thể hiện cảm hứng mời gọi, dâng hiến, khát vọng giao cảm mãnh liệt…
Đối với trường hợp “Truyện Kiều” của Nguyễn Du cũng rất đáng chú ý về phương diện nhan đề. Tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân có nhan đề là “Kim Vân Kiều truyện” (truyện về Kim Trọng-Thúy Vân-Thúy Kiều, bị cụ Ngô Đức Kế cho là kém), Nguyễn Du lại đặt cho tác phẩm lục bát thuần Việt của mình một nhan đề Hán Việt là “Đoạn trường tân thanh” (Tiếng kêu mới về những nỗi đau đớn như đứt ruột) nghe rất văn chương, “mùi mẫn”, thể hiện tập trung chủ đề của tác phẩm (Tố Như ơi lệ chảy quanh thân Kiều-Tố Hữu). Một số bản in vẫn lấy nhan đề của Thanh Tâm Tài Nhân. Thế nhưng người dân đã gọi tác phẩm theo một cách khác, rất giản dị là “Truyện Kiều”, hay gọi theo kiểu tối giản là “Kiều” (ngâm Kiều, lẩy Kiều, mê Kiều…) nghĩa là câu chuyện về nàng Kiều, về cô Thúy Kiều, nhân vật trung tâm, sự thể hiện sinh động của một “kiếp đoạn trường”. Hầu như mọi người Việt Nam đều biết đến “Truyện Kiều”, thuộc một vài câu Kiều, nhưng những người biết tác phẩm còn có một cái tên “gốc” Hán Việt khác, rất “kêu” là “Đoạn trường tân thanh” thì không nhiều. Đây là một trường hợp “vi phạm bản quyền nghiêm trọng”, song có lẽ mọi nhà văn đều muốn tác phẩm của mình bị “vi phạm” như vậy. Bởi với cách “thay bậc đổi ngôi” ấy, tác phẩm của Nguyễn Du đã bất tử trong lòng nhân dân.
Trong một số trường hợp, nếu không chú ý đúng mức đến nhan đề sẽ dẫn đến những ngộ nhận không đáng có về nội dung tác phẩm. Ví dụ, tác giả SGK Ngữ văn 12 đã khái quát nhân vật bà Hiền trong truyện ngắn “Một người Hà Nội” của Nguyễn Khải thành một nhân vật tiêu biểu cho Hà Nội ngàn năm văn hiến. Nhưng theo chúng tôi, đó chưa hẳn đã là chủ ý của nhà văn, bởi vì chính nhà văn đã thể hiện quan điểm tiếp cận của mình ở nhan đề “Một người Hà Nội”-một góc nhìn mang tính cá nhân, để suy tư, chiêm nghiệm về một con người bình thường của Hà Nội đã đi qua những chặng thăng trầm của lịch sử đất nước. Rõ ràng với nhan đề ấy, nhà văn không muốn xây dựng nhân vật theo kiểu “điển hình”, “người tốt việc tốt”, trở thành đại diện tiêu biểu cho một cái rất to tát và thiêng liêng là bản sắc văn hóa của thủ đô ngàn năm văn hiến.
Các đồng nghiệp hãy cùng học sinh bắt đầu khám phá thế giới nghệ thuật của tác phẩm bằng việc tìm hiểu ý nghĩa nhan đề, có biết bao nhiêu điều thú vị đang chờ đợi.