Núi đôi, bài thơ tình hay nhất của Vũ Cao

Bài thơ “Núi đôi” của nhà thơ Vũ Cao ra đời sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, hòa bình lập lại trên miền Bắc (20-7-1954). Ngày đó, tại một cuộc chỉnh huấn Chính trị của Đại đoàn 312 ở Phủ Lỗ, Đông Anh, Hà Nội, Vũ Cao nghe một chiến sỹ bộc bệch cuộc tình dang dở của mình.

Cảm xúc lắng sâu trong tác giả, Vũ Cao đã sáng tác bài thơ “Núi đôi” gắn với cảnh và người ở  vùng trung du thơ mộng. Bài thơ được đăng đầu tiên trên Tạp chí Văn nghệ quân đội rồi nhiều tờ báo khác và trở thành bài thơ chép trong sổ tay của hàng triệu công chúng. Có thời gian, đồng chí Bí thư và Chủ tịch của vùng quê có Núi đôi, có làng Đoài, làng Đông và làng Xuân Dục đã đến Tạp chí VNQĐ đề nghị Tòa soạn cho biết tên, tuổi của người du kích Anh hùng ấy để làng, xã vinh danh, học tập. Thật là tình huống khó khăn đối với Tòa soạn vì trên đất nước triền miên giặc giã này, có biết bao mối tình bi thương và giàu chất anh hùng ca như thế. “Núi đôi” là tượng đài thơ đậm chất anh hùng và bi tráng của một thế hệ thanh niên thời chống Pháp.

Núi đôi

Bảy năm về trước, em mười bảy

Anh mới đôi mươi, trẻ nhất làng

Xuân Dục, Đoài Đông, hai nhánh lúa

Bữa thì anh tới, bữa em sang.

 

Lối ta đi giữa hai sườn núi

Đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi

Em vẫn đùa anh: sao khéo thế?

Núi chồng, núi vợ đứng song đôi.

 

Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới

Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau

Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn

Ai ngờ từ đó mất tin nhau.

 

Anh vào bộ đội, lên Đông Bắc

Chiến đấu quên mình năm lại năm

Mỗi bận dân công về lại hỏi

Ai người Xuân Dục, Núi Đôi chăng?

 

Anh nghĩ: quê ta giặc chiếm rồi

Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi?

Mỗi tin súng nổ vùng đai địch

Sương trắng, người đi lại nhớ người.

 

Đồng đội có nhau thường nhắc nhở

Trung du, làng nước vẫn chờ trông

Núi Đôi, bốt dựng kề ba xóm

Em vẫn đi về những bến sông.

 

Náo nức bao nhiêu ngày trở lại

Lệnh trên ngừng bắn, anh về xuôi

Hành quân qua tắt đường sang huyện

Anh ghé thăm nhà, thăm Núi Đôi.

 

Mới đến đầu ao, tin sét đánh:

Giặc giết em rồi, dưới gốc thông

Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa

Em sống trung thành, chết thuỷ chung.

 

Anh ngước nhìn lên hai dốc núi

Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen

Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói

Núi vẫn Đôi mà anh mất em.

 

Dân chợ Phù Ninh ai cũng bảo

Em còn trẻ lắm, nhất làng trong

Mấy năm cô ấy làm du kích

Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng.

 

Từ núi qua thôn, đường nghẽn lối

Xuân Dục, Đoài Đông cỏ ngút đầy

Sân biến thành ao, nhà đổ chái

Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay.

 

Cha mẹ dìu nhau về nhận đất

Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau

Nứa gianh nửa mái lều che tạm

Sương trắng khuây dần chuyện xót đau.

 

Anh nghe có tiếng người qua chợ

Ta gắng mùa sau lúa sẽ nhiều

Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc

Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu.

 

Nhưng núi còn kia anh vẫn nhớ

Oán thù còn đó anh còn đây

Ở đâu cô gái làng Xuân Dục

Đã chết vì dân giữa đất này?

 

Ai viết tên em thành liệt sĩ

Bên những hàng bia trắng giữa đồng?

Nhớ nhau, anh gọi em: đồng chí

Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.

 

Anh đi bộ đội sao trên mũ

Mãi mãi là sao sáng dẫn đường

Em sẽ là hoa trên đỉnh núi

Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.