Luyện đề: Hịch tướng sĩ

Luyện đề: Hịch tướng sĩ

1. Người ta thường viết hịch khi nào ?

A. Khi đất nước có giặc ngoại xâm.

B. Khi đất nước thanh bình.

C. Khi đất nước phồn vinh.

D. Khi đất nước vừa kết thúc chiến tranh.

2. Ý nào nói đúng nhất về chức năng của thể ” hịch”?

A. Dùng để ban bố mệnh lệnh của nhà vua.

B. Dùng để công bố kết quả một sự nghiệp.

C. Dùng để trình bày với nhà vua sự việc, ý kiến hoặc đề nghị.

D. Dùng để cổ động, thuyết phục hoặc kêu gọi đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài.

3. Kết cấu chung của thể hịch thường gồm mấy phần?

A. Hai phần   C. Bốn phần

B. Ba phần     D. Năm phần

4. Trần Quốc Tuấn viết “Hịch tướng sĩ” khi nào?

A. Trước khi quân Mông – Nguyên xâm lược nước ta lần thứ nhất (1257).

B. Trước khi quân Mông – Nguyên xâm lược nước ta lần thứ hai (1285).

C. Trước khi quân Mông – Xâm lược nước ta lần thứ ba (1287).

D. Sau chiến thắng quân Mông – Nguyên lần thứ hai.

5. “Hịch tướng sĩ” được viết theo thể văn gì?

A. Văn xuôi            C. Văn biền ngẫu

C. Văn vần               D. Cả A, B, C đều sai.

6. Đối tượng mà bài hướng tới là ai? Mục đích cơ bản mà bài hịch hướng tới là gì? Để đạt được mục đích đó, tác giả đã sử dụng giọng điệu nào?

7. Lí do nào khiến tác giả nêu cả gương đời trước và đương thời?

A. Để khích lệ ý chí lập công, tinh thần xả thân vì nghĩa lớn của các tì tướng.

B. Để cho dẫn chứng nêu ra được đầy đủ.

C. Để buộc các tì tướng phải xem xét lại mình.

D. Để chứng tỏ mình là người thông hiểu văn chương, sử sách.

8. Hình ảnh nào không xuất hiện trong đoạn văn miêu tả sự ngang ngược và tội ác của giặc?

A. Cú diều     C. Trâu ngựa

B. Dê chó        D. Hổ đói

9. Đoạn văn nào thể hiện rõ nhất lòng yêu nước, căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn? Phân tích những nét đặc sắc về tư tưởng và nghệ thuật của đoạn văn đó.

10. Phân tích nghệ thuật lập luận của tác giả trong đoạn phê phán những hành động sai trái của tướng sĩ và nêu lên những hành động đúng đắn, nên làm.

11. Trần Quốc Tuấn sử dụng giọng văn nào để phê phán những hành động sai trái của các tướng sĩ dưới quyền?

A. Nhẹ nhàng, thân tình                  C. Mạt sát thậm tệ

B. Nghiêm khắc, nặng nề                  D. Bông đùa, hóm hỉnh

12. “Hịch tướng sĩ” là…. bất hủ phản ánh lòng yêu nước và tinh thần quyết chiến quyết thắng quân xâm lược của dân tộc ta”. Cụm từ nào điền vào chỗ trống trong câu văn trên cho phù hợp?

A. áng thiên cổ hùng văn            C. lời hịch vang dậy núi sông

B.tiếng kèn xuất quân                 D. bài văn chính luận xuất sắc

13. Chứng minh bài “Hịch tướng sĩ” vừa có lập luận chặt chẽ, sắc bén vừa giàu hình tượng, cảm xúc, do đó có sức thuyết phục cao.

14. Qua “Chiếu dời đô” và “Hịch tướng sĩ”, em hãy nêu lên nét giống và khác nhau giữa 2 thể loại: chiếu và hịch.

—————————

GỢI Ý

1 – 2 – 3.  Hịch là một thể văn nghị luận thời xưa, thường được vua chúa, tướng lĩnh hoặc thủ lĩnh một phong trào dùng để cổ động, thuyết phục hoặc kêu gọi tranh đấu chống thù trong giặc ngoài.

Về mặt kết cấu, một bài hịch kêu gọi đánh giặc thường gồm 4 phần:

            – Phần mở đầu: Nêu vấn đề.

            – Phần 2: Nêu những tấm gương trong sử sách để gây lòng tin và khích lệ tinh thần hi sinh vì nghĩa lớn.

            – Phần 3. Phân tích, nhận định tình hình để gây lòng căm thù giặc, làm cho người nghe biết hướng về cái đúng, gạt bỏ cái sai.

            – Phần cuối: Đề ra chủ trương cụ thể, kêu gọi phải có ngay những hành động cụ thể.

  1. Để trả lời câu hỏi này, phải đặt bài hịch trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ.

            – Kẻ thù đang lăm le xâm lược, tình hình đất nước “ ngàn cân treo sợi tóc”.

            – Một số tướng sĩ mải mê hưởng lạc, một số khác sợ uy của giặc nên dao động, muốn cầu hoà.

            Đối tượng nghe là quân ta (tướng sĩ).

            Mục đích chính của bài hịch là khích lệ lòng yêu nước, tinh thần quyết chiến quyết thắng, đánh tan tư tưởng bàng quan, thái độ cầu an hưởng lạc của một số tướng sĩ.

            Để đạt được mục đích ấy, Trần Quốc Tuấn sử dụng nhiều giọng điệu khác nhau: thân tình mà nghiêm khắc khi nói với tướng sĩ, căm uất khi nói tới kẻ thù,…

  1. HS chỉ ra đoạn văn và phân tích.

            Đoạn văn “Ta thường tới bữa … ta cũng vui lòng.” là một đoạn đặc bịêt xúc động.

            – Muốn khơi thức lòng căm thù giặc và tinh thần chiến đấu của tướng sĩ, trước hết người viết phải bày tỏ, bộc bạch thái độ của chính mình. Trong đoạn văn này, lòng yêu nước của tác giả được bộc lộ hết sức cụ thể: “tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”, bày tỏ thái độ mạnh mẽ: “căm tức cha xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”; sẵn sàng chấp nhận mọi hi sinh vì Tổ quốc: “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.

            – Về mặt nghệ thuật, cần chú ý sự xuất hiện liên tiếp của các vế gồm 4 từ (tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa) nhằm nhấn mạnh một nỗi đau lớn; cách diễn tả lòng căm thù giặc cao độ thông qua cácđộnh từ gây ấn tượng mạnh (xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu) và câu văn có quan hệ dẫu cho …(thì) ta cũng vui lòng nhằm khẳng định tinh thần quyết sống mái với kẻ thù.

            – Những lời bộc bạch trên đây không phải là những lời nói suông mà là những lời nói từ tim gan của một con người coi lợi ích của Tổ quốc là lợi ích tối cao. Những lời bộc bạch tự đáy lòng này có ý nghĩa như một tấm gương để tướng sĩ học tập.

  1. Đây là một đoạn văn hay, tình và lí kết hợp hài hoà, lời văn sắc bén, sôi nổi, uyển chuyển.

            – Trong đoạn phê phán tướng sĩ, cần chú ý cách lập luận:

            +Sử dụng liên tiếp những từ mang màu sắc phủ định (không biết lo, không biết thẹn, không biết tức, không biết căm) để nói về thái độ bàng quan trước vận mệnh của đất nước của các tướng sĩ. Đoạn văn này đặt ngay sau đoạn văn nói về ân tình chủ – tớ ở trên với ý: tướng sĩ đang phụ lòng tốt của chủ tướng.

            + Chỉ ra các thú hưởng lạc làm “quên việc nước, quên việc binh” cũng là chỉ ra thái độ vô trách nhiệm của các tướng sĩ trước vận nước, nhất là trong cảnh đất nước lâm nguy.

            + Chỉ ra hậu quả khôn lường: nước mất nhà tan. Cần lưu ý, tác giả nói đến hậu quả khi đất nước bị xâm chiếm: quá khứ (xã tắc tổ tông bị giày xéo, mồ mả cha ông bị quật lên), hiện tại (bị bắt, gia quyến bị tan,…), tương lai (trăm năm sau tiếng dơ khôn rửa, tên xấu còn lưu,…).

            – Các việc nên làm:

            + Nêu cao tinh thần cảnh giác.

            + Tăng cường luyện tập, học tập Binh thư yếu lược.

            Những việc nên làm mà tác giả nêu lên đều gắn với chuyện ích nước lợi nhà. Để mọi người nhận thức rõ hơn, Trần Quốc Tuấn nêu lên hai viễn cảnh:

            (1) Khi nói đến viễn cảnh thất bại, tác giả sử dụng hàng loạt từ phủ định: không còn, cũnh mất, bị tan, cũng khốn,…

            (2) Khi nói đến viễn cảnh thắng lợi, tác giả sử dụng hàng loạt từ khẳng định: mãi mãi vững bền, đời đời hưởng thụ, không bị mai một, sử sách lưu thơm,…

            Ngoài ra, gắn với thủ pháp đối lập, tương phản, tác giả rất chú ý tác động tới tiến trình nhận thức, nêu bật vấn đề từ nông đến sâu, từ nhạt đến đậm.

  1. Có thể tham khảo dàn ý sau:

A. Mở bài:

            – Giới thiệu bài “Hịch tướng sĩ”.

            – Giới thiệu đặc điểm nghệ thuật bài hịch: vừa có lập luận chặt chẽ, sắc bén vừa giàu hình tượng, cảm xúc.

B. Thân bài:

1. Nêu đặc điểm chung của thể hịch.

2. Chứng minh bài “Hịch tướng sĩ” có lập luận chặt chẽ, sắc bén:

a. Bài hịch có trình tự và bố cục lập luận hợp với tâm lí tiếp nhận.

            – Nêu bố cục của bài hịch gồm 4 phần.

            – Tác dụng của cách bố cục đó: tác động vào nhiều mặt trong nhận thức và tình cảm của tướng sĩ.

            + Khích lệ ý chí lập công danh, tinh thần xả thân vì nước.

            + Khích lệ lòng trung quân ái quốc và ân nghĩa thuỷ chung.

            + Khích lệ lòng tự trọng, liêm sỉ ở mỗi người,…

            + Cuối cùng là khích lệ tinh thần yêu nước, quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược.

b. Cách lập luận phong phú và linh hoạt. Ở mỗi phần, tác giả trình bày luận điểm khác nhau.

            – Ở phần đầu, tác giả nêu những tấm gương trung nghĩa để khích lệ lòng tự trọng và ý chí lập công danh ở tướng sĩ.

            – Ở phần hai, tác giả dùng những dẫn chứng thực tế để tố cáo sự ngang ngược và tội ác của kẻ thù, sau đó trực tiếp bày tỏ nỗi lòng của mình để khơi gợi nỗi nhục mất nước và lòng căm thù giặc.

            – Ở phần ba, tác giả đưa ra những lời phê phán nghiêm khắc thái độ bàng quan, cầu an hưởng lạc của tướng sĩ và chỉ ra hậu quả của nó. Sau khi chỉ ra cái sai, tác giả mới ôn tồn khuyên bảo những điều tướng sĩ nên làm và chỉ ra kết quả tốt đẹp của nó. Hai đoạn văn được trình bày theo lối tương phản có tác dụng giúp cho tướng sĩ nhận rõ đúng – sai.

            – Ở phần cuối, tác giả vạch rõ ranh giới giữa hai con đường đúng – sai, chính – tà, ta – địch. Lời kết luận hô ứng chặt chẽ với lời mở đầu, hoàn chỉnh lập luận và xoáy mạnh vào mục đích nghị luận của bài hịch: thức tỉnh lòng yêu nước, căm thù giặc và tinh thần quyết chiến quyết thắng giặc ngoại xâm.

3. Chứng minh bài “Hịch tướng sĩ” giàu hình tượng và cảm xúc.

            – Hình tượng và cảm xúc của lời văn xuất phát từ tình cảm mãnh liệt của người viết: tấm lòng yêu thương tướng sĩ, muốn tướng sĩ đi theo con đường đúng đắn.

            – Đặc điểm này thể hiện trong toàn bài hịch, nhưng tập trung nhất ở phần hai, qua việc tố cáo tội ác và sự ngang ngược của kẻ thù:

            + Dùng hình ảnh ẩn dụ: lưỡi cú diều, thân dê chó.

            + Dùng hình ảnh tả thực: đi lại nghênh ngang, sỉ mắng triều đình, bắt nạt tể phụ, đòi ngọc lụa, vét bạc vàng

            + Dùng biện pháp so sánh: Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói,…

            + Dùng nhiều vế ngắn liên tiếp: tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa,... như những đợt sóng lòng, chứa đầy tâm trạng.

            + Dùng nhiều hình ảnh khoa trương mà chân thành, giàu sức truyền cảm, khiến cho một đoạn văn chính luận mà mang đậm chất trữ tình.

            – Giọng văn phong phú đa dạng, bộc lộ nhiều sắc thái, cung bậc tâm trạng, làm nên sức truyền cảm mạnh mẽ.

            + Khi ngợi ca những tấm gương trung nghĩa, giọng văn sảng khoái hào hùng.

            + Khi tâm tình gan ruột, giọng văn sâu lắng mà sôi sục, thống thiết.

            + Khi phê phán hành động hưởng lạc, thái độ bàng quan của tướng sĩ, giọng văn vừa chân tình vừa nghiêm khắc, lúc sỉ mắng thẳng thừng (không biết lo, không biết thẹn, không biết tức, không biết căm), lúc mỉa mai, chế giễu (cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh, chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai,...)

            + Khi khuyên bảo điều đúng nên làm, giọng văn ôn tồn thân mật.

c. Kết bài: Khẳng định ý nghĩa nghệ thuật của tác phẩm: là một áng văn bất hủ, là một mẫu mực về văn nghị luận trung đại.

14. – Giống nhau:

            + Cả hai loại văn này đều nhằm mục đích ban bố công khai, là lời của bề trên nói với kẻ dưới.

            + Đều là thể văn nghị luận, kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén, có thể được viết bằng văn xuôi, văn vần hoặc văn biền ngẫu.

            – Khác nhau: Chiếu dùng để ban bố mệnh lệnh; hịch dùng để kêu gọi, cổ vũ, thuyết phục nhằm mục đích khích lệ tinh thần, tình cảm.