Truyện ngắn: Người Không mang họ- Chương 2, phần 1

CHƯƠNG 2 

1

Bây giờ xin kể qua một chút về cái thị trấn ngả ba đường này. Gọi là thị trấn ngả ba bởi vì nó sinh ra cùng thời với cái ngả ba huyết quản nơi cụng đầu của đường 9 với quốc lộ 1.

Từ thuở còn người Pháp đóng chiếm, con đường 9 rải đất sỏi, thì Đông Hà cũng chỉ phôi thai dăm bảy quán nhà lợp tranh nằm khép nép bên mép sông Cửa Việt. Thế rồi cái huyết quản đường 9 ngày một to ra, của cải hai chiều cứ trôi ngày một nhiều thì Bản Đông bên Lào cũng phình to lên mà Đông Hà bên Việt cũng lớn dậy. Người Mỹ qua, đường 9 trở thành một trục đường chiến lược thượng hạng, là động mạch chủ nuôi sống toàn bộ phòng tuyến Mác Na-ma-ra. Vậy là, nhoáng một cái, y như có phép thần thông biến hóa, thị trấn đầu cầu miền Nam này bỗng như một cô gái nhà quê ra tỉnh, cười nói huyên thuyên, trang sức lòe loẹt đủ các mốt lai căng tân tiến nhất.

Trước hết đây là cái bướu khổng lồ để chứa chấp hai nguồn hàng lậu lớn. Một nguồn hàng buôn từ đất Thái Lan qua Lào về đất Việt Nam, một nguồn chủ yếu do quân tiếp vụ chuyển từ phía trong ra hoặc ngoài biển vào qua cảng Đông Hà. Cho nên, cái nghề nghiệp chủ yếu và bao trùm lên hầu hết đời sống người dân ở đây là buôn bán hàng lậu và những hiệu lành nghề làm giả những mặt hàng ngoại quốc. Rồi nữa, Đông Hà là nơi xả hơi của hai cánh lính. Một cánh từ Khe Sanh, Lao Bảo về. Bao nhiêu cơ cực của rừng núi biên ải, bao nhiêu gian lao vất vưởng của những ngày dã ngoại đóng chốt được trút bỏ nơi đây để tận hưởng thú vui đô thị. Lại một cánh khác từ Sài Gòn, Huế được điều ra thế chân vùng chiến thuật I, trước phút bước vào tử địa, bao giờ cũng có tâm trạng coi như đời đến đây là chấm dứt. Hãy sống vài giây cuối cùng với bao lạc thú thế gian. Cho nên một nghề nữa cũng không kém phần rầm rộ trên thị trấn này là làm điếm và cướp bóc. Đội quân này tùy lúc mà tăng giảm nhưng nói chung chiếm đại bộ phận thanh thiếu niên thị trấn và trên danh nghĩa, trở thành đối tượng tác chiến của cảnh sát Đông Hà.

Với tất cả bối cảnh ấy, thị trấn Đông Hà lại được đặt giữa một trong những luồng gió Lào khốc liệt nhất. Gió Lào ở đây có mặt từ tháng ba, hoành hành thả cửa cho tới tháng bảy, tháng tám. Vào dịp đó thị trấn như một bãi chiến trường hạng nặng, cát bụi mù mịt, những mái tôn quăn môi lợn, những tường nhà che chắn bằng ván gỗ hở toang hoác, nước máy trong các ống dẫn nóng hâm hấp như nước bún giò.

Tóm lại, bản lai lịch của thị trấn Đông Hà không hề có tuổi thơ, chỉ có những ngày sơ khai kham khổ rồi đánh đùng một cái là tuổi làm duyên làm dáng, là một thời ăn chơi trác táng và lao ầm ầm trong cõi cát bụi đua chen.

Nói chung là vậy. Nhưng nói riêng, nhìn vào một căn nhà hay một con người cụ thể ở đây lại thấy đầy đủ những bản lịch trình oái oăm, li kì, những số phận nổi trôi. Như căn nhà sát mép hồ nước trên trục đường 1, với một mái tôn chồm ra như chực ngoạm hết người đi đường, hai chiếc máy nén hơi đặt cân đối ngay trước cửa y như hai khẩu đại bác thần công của nhà Nguyễn đặt trước cổng Ngọ Môn. Một chiếc lốp ô tô đặt phía dưới làm bệ, nhưng chủ nhà vẫn sợ khách không hiểu nên mới kê lên trên đó một tấm ván ép vẽ hình một chiếc lốp khác, vẫn chưa đủ lại phải chua thêm dòng chữ: "Phù Ái – vá xăm, lốp, rửa xe, sửa chữa ô tô lành nghề". Ông Phù Ái vốn là con nhà đánh cá biển, quê ở tận ngoài Nghi Lộc, Nghệ An. Từ ngày trở thành ông chủ lớn (mặc dù chỉ là chủ một trạm rửa xe), ông thường cho công bố tung tích của mình một cách đầy kiêu hãnh như một trang hảo hớn từng vang bóng một thời. Chuyện là vào một năm, thuở Việt Minh còn đánh Tây, trong một cơn động biển bất thần làm chết hàng trăm dân đánh cá, có một người thanh niên Nghi Lộc dun dủi đã thoát chết, cùng với chiếc thuyền của mình lênh đênh bốn ngày giữa biển và cuối cùng giạt vào một bãi hoang rậm rịt đầy cây bông gai và dứa bãi. Người thanh niên không còn đủ tỉnh táo để phân định phương hướng, không thể hiểu nổi chỗ này là đâu. Anh ta bò bằng cả hai cùi tay và hai đầu gối, kéo lê người trên bãi. Bò mãi, bò mãi mà chẳng gặp được người nào để hỏi. Cái đói và cái mệt đã nhận ngập anh trong rừng cây dại. Anh thiếp lịm đi bao lâu không còn biết nữa.

Bỗng anh ta chợt tỉnh. Có một hương vị gì đó làm cho anh tỉnh dậy. Thoạt đầu là một cảm giác bâng khuâng, rồi tiếp đến là nôn nao gan ruột. Ừ, nôn nao quá, nôn nao đến choáng váng. Anh cố sức hồi tâm lại. Anh bỗng nhận ra. Đúng là mùi hương khói.

Với kinh nghiệm của người sinh ra, lớn lên trên vùng biển, anh biết ngay ở đâu đây có miếu thờ Thần. Cố nhổm tấm thân dậy, nhận hướng gió, anh lại trườn người đi. Hy vọng làm sức anh tăng thêm gấp bội. Chui người qua hai bờ dứa bãi anh nhìn thấy một cành si xòa ngang. Chắc chắn đó rồi. Anh lồm cồm run rẩy bò đến.

Không phải ngôi miếu mà là một tảng đá to chồm lên như một con trâu mộng. Phía trước nó là một phiến đá khác chắn ngang nhẵn thín như có ai bào. Bên cạnh chiếc bàn bằng đá là gốc si già bị gãy ngang chỉ còn một cành bằng cột nhà chồm lên phía trước. Người thanh niên đói khát ấy không bận tâm gì đến cây si linh thiêng ấy mà chỉ chằm hằm vào con gà luộc đặt trên bàn đá. Phía trong có nắm hương cháy nghi ngút. Mồm anh lập cập, rên rỉ: "Lạy ngài! Con là kẻ thất lạc, đói quá, xin ngài một cái cánh". Nói rồi không đợi ngài trả lời, anh quờ tay ra túm lấy cánh gà xé toạc. Nhoáng một tý, cả thịt cả xương của chiếc cánh trôi tuột vào trong cổ họng anh. Rồi không kịp khấn tiếp, anh xé luôn cánh nữa. Rồi đến một chiếc đùi, hai chiếc đùi, rồi cái ngực gà, hai mảng sườn, rồi cái sống lưng con gà luộc tiếp nhau lao nhanh ừng ực vào bụng anh. Cơn đói dần dần nguôi. Tốc độ nhai của đôi hàm có chậm lại tý chút, và nhờ thế đôi mắt cũng lờ đờ để ý xung quanh. Bất ngờ anh nhìn thấy một đống giấy bạc đặt trong cùng mặt đá sát với gốc cây si bị gãy. Chắc chắn là của người đặt lễ. Cây si gãy chắc đã lâu đời nên mặt gỗ cũng nhẵn gần như mặt đá. Ở giữa ruột cây có một lỗ bộng đút chân vào lọt trơn thín như hang ếch. Mải để mắt đến mọi thứ mà anh ăn gần hết con gà lúc nào không nhớ. Chỉ còn chiếc cổ và cái đầu gà trơ trọi như chiếc búa đóng đinh. Anh mân mê nâng lên đặt xuống một tý rồi lại lẩm bẩm: "Lạy ngài, đã thương thì thương cho trót, ít nhiều cũng chịu tiếng ăn mày cửa ngài, cho con làm nốt cái thủ". Nói rồi anh yên tâm đưa chiếc đầu gà lên mồm.

Bỗng anh khựng tay lại. Linh tính báo ngay cho anh biết tai họa. Hình như ngài hiện lên. Loáng một cái anh quay phắt lại. Ở chính giữa gốc si gãy đột ngột thò lên một cái gì to bằng nắm tay đủ màu hồng tía, tiếng thở phì phì. Anh chưa kịp định thần thì cái vật ấy vụt cao lên suýt nữa chạm vào nách anh. Không kịp nghĩ ngợi, không kịp lạy ngài, nói tóm lại không kịp một giây để định thần, anh chụp tay lên cổ con vật đó, di xuống mặt bàn đá. Mắt anh nhắm nghiền lại, tay miết cổ "ngài", mài lấy mài để. Cả thân hình anh cứng đờ như một khúc gỗ. Cánh tay co duỗi một cách điên dại. Cho đến lúc cơn đau ở đó nhói lên buốt khắp da thịt thì anh mới dần dần hồi tỉnh. Cái đầu "ngài" đã vạt đi quá nửa và tay anh cũng toạc một miếng khá to vì bào lên mặt đá. Máu "ngài" trộn lẫn máu anh chảy ròng ròng. Anh buông tay ra, đứng dậy, run cầm cập. Mặc dầu lúc này anh đã có thể hiểu ra "ngài" là một con rắn bấy lâu sống trong ruột cây si, cũng có thể đoán được rằng từ lâu "ngài" quá quen với món lễ của dân chài xứ biển, chỉ có hôm nay mới bị phỗng tay trên. Anh cũng loáng thoáng nhận định được sở dĩ "ngài" không phản công được kẻ thù vì cả tấm thân béo nhẫy của "ngài" bị ngập trong bọng cây… Anh còn đủ chút trí óc để hiểu ra ngần ấy lý lẽ, tuy thế vẫn không sao kìm nổi cơn khiếp đảm. Người anh cứ run lên như đang cơn sốt, mắt dại đi, tay chân không sao cử động được nữa. Mặc dầu vậy, trước lúc co giò chạy anh vẫn quờ mấy ngón tay tê cóng lên mặt đá nhét hết đống giấy bạc vào cạp quần.

Câu chuyện ấy đến hôm nay đối với ông chủ Phủ Ái là một trang "anh hùng ca" bất hủ. Nhưng hồi đó lại là cơn ác mộng khủng khiếp. Không một đêm nào anh ta không nằm mơ thấy "ngài" hiện lên. Lúc thì "ngài" thè lưỡi phùng mang thổi phì phì vào mặt. Lúc thì "ngài" quấn lấy cổ anh mà siết đến tắt thở. Phù Ái sống như một kẻ mất trí, đêm ngủ bần thần la hét, ngày thì đi vất vưởng lang thang. Nỗi khiếp sợ đẩy anh ngày một xa rời biển. Phù Ái trở thành kẻ sống bên lề chợ. Từ lúc nào không rõ anh thành kẻ gánh thuê chuyên nghiệp cho những bà buôn mây, buôn củi từ Cam Lộ về Đông Hà, Ai Tử.

Phù Ái làm thuê một cách tận tụy và cố quên chuyện cũ. Nhưng hình như "ngài" vẫn chưa buông tha. "Ngài" nhập vào . Đó là một người con gái có cặp môi cong như lưỡi liềm, hai mi mắt lúc nào cũng sưng húp như khóc. Một cô gái mà công bằng ra thì chẳng có lấy một nét gì hấp dẫn ngoài bộ ngực chồm ra quá mức và cặp mông như cái thúng úp vào. Đã thế giọng cô lại ồm ồm như ếch kêu mà lúc nào cũng cau có quát nạt. Đàn bà mà như thế thử hỏi ai mê được. Thế mà Phù Ái lại mê, mê đến đờ đẫn cả người, mê trong sự nhẫn nhục chịu đựng. Rõ ràng "ngài" đã cột được số phận của anh! Anh trở thành kẻ nô lệ riêng cho con gái bà bán mây, và mười ba năm tận tụy đã làm cho cô ta sinh được chẵn mười đứa con. con gái bà bán mây

Bây giờ thì vợ Phù Ái đã chết. Nhưng toàn bộ thần khí của bà trút lại cho đứa con gái đầu, cô Kim Chi.

So với mẹ, Kim Chi vượt xa về mọi mặt. Sắc mặt và hình hài nói chung đã được tu chỉnh lại một cách khá hấp dẫn. Cặp môi không quá cong như môi mẹ và đôi mắt cũng không sưng húp. Tuy rằng vẫn cái khuôn mặt bầu tròn hình bánh đúc, nhưng trên mặt bánh đó tạo hóa đã điểm được cái sống mũi thẳng và cặp má nhô lên vừa phải khiến kẻ ngoài nhìn vào cũng cảm thấy rung động. Hơn hẳn mẹ, Kim Chi sinh ra trong thời Mỹ. Sức sống của cô tràn trề kiểu Mỹ. Cái hấp dẫn nhất có lẽ là chỗ đó.

Cũng như nhiều gia đình khác, ông chủ Phù Ái phô ra phía ngoài cái biển sửa chữa ô tô, mặc dầu công việc đó không một ai trong nhà này trực tiếp nhúng tay vào làm cả. Mỗi một thành viên trong nhà này đều có một nghề nghiệp riêng, thậm chí họ không biết hết công việc của nhau, càng không thể nào biết đích xác thu nhập thực tế của mỗi người. Hàng tháng bốn đứa con lớn góp vào cho bố mỗi đứa năm ngàn để "gây dựng cơ ngơi chung". Ông bố thanh toán sòng phẳng với các con như kiểu chủ nhà băng với các cổ đông.

Nguyễn Viết Lãm – từ nay xin hãy quên giùm anh ta cái tên cũ Hoàng Lạng – làm thuê cho ông chủ Phù Ái. Công việc không đến nỗi quá sức anh, nhưng rất bận bịu. Bất kỳ lúc nào cũng có chiếc xe đò, hay xe tải nhà binh, hay xe Zeep các sĩ quan đỗ xịch trước cửa nhà, thì lập tức đám người làm phải khoa chân múa tay tỏ vẻ sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của khách. Lãm là người được gọi tên nhiều nhất. "Kà lê mày!", "Mỏ lết đâu?", "Dầu đâu, Lãm!". Thợ cả giục thợ giúp việc, thợ giúp việc quát tháo đám phụ việc. Những tiếng chửi tục, lời hò hét cứ nhặng xị lên. Ai cũng tỏ ra cần mẫn trước chủ, ai cũng cố chứng minh rằng mình hoàn toàn thành thạo công việc được thuê. Dầu mỡ lấm lem mặt mũi nhưng không rửa, thậm chí đôi lúc Lãm còn tự quẹt nhọ lên mặt mình. Bởi nếu không thế làm sao chứng tỏ rằng suốt ngày mình lăn lê với công việc.

Cái cảm giác trước tiên ập vào đầu Lãm là lúc nào cũng quay cuồng, cuống quýt trong một tốc độ rất lớn. Gọi chạy, nhào "dô", vặn, siết, lao xuống, trèo lên… Cứ vậy, tốc độ chỉ tăng mà không hề giảm. Sau mỗi ngày làm việc Lãm thấy phạc phờ cả người. Cái mệt nhọc không phải vì công việc nặng nề mà chính vì thần kinh quá căng trong cái tiết tấu lúc nào cũng như chữa cháy ấy.

Anh trông chờ đêm xuống. Khi mà cả thị xã ngủ như chết lặng sau một ngày thở hồng hộc vì tốc độ, thì Lãm lặng lẽ ra bờ ao phía sau nhà. Chưa tắm vội, anh khoan thai ngồi xuống, thả mình lên tấm ghi trơn ai đó lót để tắm giặt, anh nhắm mắt lại để tận hưởng làn hơi nước từ mặt ao đang dìu dịu phả lên. Có khi anh ngủ quên luôn ở đó. Muỗi bám dày hai cẳng chân, bám khắp mang tai, gò má. Mặc kệ, muỗi không làm cho người ta căng thẳng như công việc ban ngày. Cứ thế, nhiều lần thành lệ quen. Cứ đêm đến, hễ mặt đường vắng lặng tiếng xe là Lãm lại len lén chui ra "yên nghỉ" ở cái thiên đường riêng của mình.

Nhưng rồi Lãm cũng không còn độc quyền được chốn thiên đường ấy và chẳng thể nghỉ ngơi được yên ổn. Cô con gái vốn mang trong mình giòng máu "bà chủ của đàn ông" của mẹ, lại cộng thêm cái sắc sảo kiểu sống Mỹ, đã sớm phát giác ra người đàn ông trẻ mới học việc trong nhà này có cái sức nặng lầm lì của tính khí. Khác với những người con trai khác lúc nào cũng tròn hai con mắt nhìn như ngây dại vào khuôn ngực đồ sộ của cô mỗi khi Kim Chi cố tính chạy từ sau buồng tắm vào nhà để lấy một chiếc áo lót, hay khăn bông, hay một bánh xà phòng "bỏ quên", Lãm thường nhíu quặp đôi lông mày lại và quay đi, mồm lủm bủm một câu gì đó không ai nghe rõ. Thực tình thì Lãm không sao hiểu được tại sao lần tắm nào cô ta cũng cứ bỏ quên ở trong nhà một thứ gì đó để rồi giả vờ ngượng ngập lật đật chạy vào lấy? Một hai lần, dăm bảy lần bực tức cáu kỉnh như vậy rồi cũng quen đi. Lãm không hề để mắt đến chuyện ấy nữa. Suốt ngày anh chúi đầu vào gầm xe, đêm đến lén ra khỏi nhà. Đôi lúc có việc phải chạm đầu với Kim Chi, anh không chào hỏi, không cười cợt, cứ dửng dưng như khách qua đường. Chỉ cần tỏ chút thái độ thế thôi, chứ anh cũng đủ trí khôn để ý thức được rằng, đừng dại dột mà làm phật lòng nhà chủ. Không nên hở miệng châm chọc một điều gì. Lãm đã sống gần nửa năm như vậy. Nhưng như một kẻ bơi trong ao bèo, khi anh cố tính quay đi bơi về phía khác thì đằng sau anh đám bèo cứ bám riết như đỉa đói. Lãm đã dần dần cảm thấy chuyện đó. Cái "cảm thấy" ngày càng tăng cùng với sự lo sợ hốt hoảng như kẻ gian linh cảm thấy mình đã bị phát giác. Những đêm trốn ra bờ ao, ngồi một mình anh thường thấp thỏm nhớ lại ánh mắt sắc như dao chém của cô gái lớn con ông chủ và những cú nhoẻn cười bất chợt đầy đe dọa đối với riêng anh. Anh đã thấy một điều gì đó không yên lành đang chen vào cuộc sống vốn đã rất tạm bợ của mình.

Đêm nay, một đêm hạ tuần tháng sáu. Trăng lên muộn và méo xệch. Lãm đã ngồi khá lâu trên tấm ghi trơn, sau đó mới bắt đầu tắm. Tắm cũng khá lâu. Có chuyện gì mà vội. Trăng không sáng. Cả gió nồm nữa cũng quá hờ hững, vô tâm. Cái nóng vẫn cứ hầm hập phả ra từ cái tường gạch, từ những đống sắt ngổn ngang phía bến cảng bên kia quốc lộ, từ những mái tôn lợp quăn queo trên các mái nhà thấp như nấm. Hình như từ bất kỳ cái gì trên thị trấn này kể cả thể xác con người ta cũng đều hầm hập trút ra hơi nóng. Cả thị xã như một lò gạch khổng lồ chưa nguội lửa. Lãm ngâm mình dưới ao chán chê, rồi để nguyên quần ướt như vậy mà nằm xoài lên tấm ghi. Cái ướt át lan man bò vào trí não cùng với sự mệt mỏi khiến mắt Lãm ríu lại. Anh ngủ.

Nhưng bỗng Lãm tỉnh dậy. Có một ngọn gió Lào phả hơi nóng hừng hực vào mạng sườn anh. Anh tỉnh dậy và giây phút đầu tiên nhận ra rằng trăng đã lên cao và gió nồm cũng đã thổi mạnh. Thế mà sao bên mạng sườn anh vẫn phần phật hơi lửa? Loáng một cái liếc mắt, Lãm bỗng run cả người. Kim Chi! Cô ta ra đây tự bao giờ? Tại sao cô lại ngồi sát vào mình như vậy? Lãm bối rối tự đặt ra bao câu hỏi. Nhưng cả cơ thể anh vẫn không hề động đậy. Tuy vậy hình như cô gái sõi đời này đã biết. Kim Chi đứng dậy nhanh và bước hai bước xuống phiến đá dưới cầu ao. Có thể cô ta chao chân? Lãm thầm lạy trời cho mọi việc trôi qua nhanh chóng! Nhưng cũng loáng một cái, Kim Chi đã cởi phăng chiếc áo. Lãm nhắm nghiền mắt lại. Tim anh đập loạn xạ. Nỗi sợ hãi làm anh thấy tức thở. Lãm nhắm mắt lại khá lâu. Rồi anh khe khẽ mở mắt ra. Một cái gì đó choáng ngợp tràn trề trước mặt Lãm. Mà lại quay chếch về phía anh. Nước khoát tung lên nhiều hạt rơi lép tép xuống mặt Lãm. Anh vẫn không dám động đậy. Coi như đã ngủ, anh cố nhắm mắt lại lần nữa. Nhưng lần này ngắn hơn. Anh lại khẽ mở mắt ra mặc dầu nói có trời chứng giám là anh không hề muốn vậy. Trăng đã lên khá cao. Những tai nước khoát tung tóe rơi xuống như sao sa. Muôn vàn hạt sao sa quanh khối châu báu đang được tiết lộ và phô diễn.

Lại một ngày mới. Vẫn những vòng quay tít mù như vậy. Vẫn hồng hộng tốc độ như vậy. Lại leo lên trần xe, chui xuống gầm, chạy vội, kờ-lê vặn, siết, gõ côm cốp vào máy phát điện, đạp bản đề, quay ma – ni – ven, tháo lốp… Vẫn thế và vẫn thế. Nhưng đối với Lãm đã có một cái gì đó không còn như thế. Nắng hình như gay gắt hơn, bức bối hơn, và khát. Chao ôi, sao mà lúc nào cũng cảm thấy khát đến cháy cổ. Anh uống nước ừng ực. Mồ hôi tràn trề da thịt, lại uống nữa. Nhưng vẫn khát. Mỗi lần Kim Chi đi qua chỗ anh, ném một ánh mắt, quẳng một nụ cười, thế là cơn khát lại ứ lên, nghẹn tắc ở cổ. Đồng thời với nỗi khát là sự sợ hãi. Hình như ông chủ nhìn anh với con mắt khác lạ? Những người thợ cũng nhìn anh thóc mách, nghi kỵ? Cả đám trẻ con trong nhà này cũng vậy? Tất cả chỉ mới là hình như trong sự mặc cảm vốn đã thành bản năng tự vệ của anh. Lãm vừa xấu hổ vừa căm uất. Đầu anh càng cúi gằm xuống. Tại sao lại để cho mọi người khinh mình? Không thể được. Cả cái xã hội này vốn đã khinh mình vì mình là thằng thanh niên ngoài Bắc vào. Mặc dù ở đây tung tích anh đã được bịt kín, nhưng lúc nào Lãm cũng có cảm giác rằng người ta đã phát giác ra anh bởi vì anh không thể nào hòa hợp được với xung quanh. Cái dáng đi khác họ, kiểu cười cũng không giống họ. Anh đã tập cáu kỉnh và chửi tục nhưng xem ra cũng không giống tụi thanh niên trong này. Anh cũng đã kiếm được một chiếc quần chật ống và loe rộng phía dưới, song vẫn cứ bứt rứt trong người vì vẫn thấy chưa ra dân gốc ở đây. Thật là điên tiết, Lãm thường nghiến răng hậm hực. Tất cả đang khinh mình thì mình cũng căm ghét tất cả. Đếch cần.

Nhưng riêng lần này thì nhục quá. Nhục đến mức không thể ngẩng đầu lên được.

– Cái ngày ấy… hà… bây chừ nói lại chẳng ai tin, nhưng con rắn thần kia rõ ràng bằng cái lốp Hon – đa chứ không ít…

Lão Phù Ái thỉnh thoảng lại hứng chí ca lại "bản trường ca" bất hủ của mình. Lãm đã nghe không biết đến mấy chục lần. Anh có thể nhận rõ ràng là bịa, thậm chí có chỗ đại bịa nữa. Ví dụ như đoạn nói rằng, sau này khi Phù Ái đã lấy vợ và một bầy con rồi, tự nhiên một hôm đến ngày rằm, chỉ vì lỡ một chuyến hàng mây nên chậm về thắp hương, cả bầy con của lão tự nhiên lăn đùng ra ôm lấy nhau quằn quại giữa nhà y như một bầy rắn. Lão cam đoan rằng lúc đó nhìn hình dáng và điệu bộ chúng nó hoàn toàn giống rắn. Chuyện như vậy thì nghe cho nó vui tai chứ tin làm sao được!

Nhưng mà hôm nay, sau cái điệp khúc "thân rắn" của lão già thì Kim Chi lại lừ lừ đi từ buồng trong ra. Cô mặc một chiếc áo sọc đen ngoằn ngoèo, dáng đi ỏn ẻn, uốn lượn. Bất chợt cô ngồi sà xuống sát Lãm, chồm cả ngực lên vai Lãm và vươn cái đầu ra phía bố ra vẻ như đang nghe chuyện một cách hấp dẫn. Lãm rùng mình đảo vội mắt về phía đám thợ xem thử có ai để ý đến mình không? May mà không. Hoặc người ta giả đò không để ý. Người Kim Chi vẫn vắt chéo qua vai Lãm. Bất giác Lãm nhận thấy Kim Chi có nét gì đó không bình thường, một nét gì đó thật khủng khiếp. Và đột ngột anh tin "thần rắn" vẫn đang ở trong nhà này.