Hải Thượng Lãn Ông
Hải Thượng Lãn Ông là tên hiệu của Lê Hữu Trác, một nho gia và đanh y Việt Nam vào cuối đời Hậu Lệ Ông sinh năm 1721, người xã Liêu xá, huyện Đường Hào, trấn Hải Đương (nay thuộc phủ Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Ông thuộc đòng đõi một gia đình có nhiều đời đại đăng khoạ Cha và chú đều đỗ tiến sĩ và làm quan đến đại thần. Lúc còn trẻ, ông đã nổi tiếng hay chữ. Đến năm 20 tuổi, gặp buổi nhiễu nhương, chúa Trịnh Giang độc đoán, giặc giã nổi lên khắp nơi, ông quyết định xếp bút nghiên theo việc đao cung. Đang ở trong quân ngũ, ông phải về quê ngoại là huyện Hương Sơn (thuộc tỉnh Hà Tĩnh bây giờ) để thay người anh thứ năm phụng đưỡng mẹ già. Tại Hương Sơn, ông mắc phải một chứng bệnh đai đẳng, may nhờ một y sĩ họ Trần cứu chữạ Từ đó, ông quyết định rời bỏ quan lộ, đốc lòng nghiên cứu y học, trở thành một y sĩ có tiếng. Ông mở trường đạy y học và ra công trước tác một bộ sách y khoa đồ sộ : Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh. Năm 1782, ông được quan Chính Đường (Huy Quận Công Hoàng Đình Bảo) tiến cử lên kinh đô chữa bệnh cho Thế Tử Trịnh Cán (con chúa Trịnh Sâm và Tuyên Phi -Đặng Thị Huệ). Tuy việc chữa bệnh không thành, ông đã phải ở kinh đô trong khoảng một năm. Cũng may là ông về nhà kịp trước khi xảy ra loạn Kiêu Binh, mở đầu một thời kỳ đại loạn trong lịch sử Việt Nam, kéo đài đến năm 1802 mới chấm đứt. Sau khi về, ông ghi lại những điều mắt thấy tai nghe tại kinh đô trong cuốn tùy bút “Thượng Kinh Ký Sự”. Sách này thường được in trong phần phụ lục của Y Tông Tâm Lĩnh. Ông mất năm 1791.
Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương tên thật là Hồ Phi Mai, là con của Hồ Sĩ Danh (1706-1783), quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, và một người thiếp quê ở Hải Dương.
Năm sinh, năm mất, thân thế, cuộc đời, và thơ văn của bà đến nay vẫn còn vướng mắc nhiều nghi vấn. Ta chỉ biết bà sống vào thời Lê mạt Nguyễn sơ, người cùng thời với Nguyễn Du (1765-1820), Phạm Đình Hổ (tức Chiêu Hổ, 1768-1839).
Hồ Xuân Hương học rộng, đọc sách nhiều, uyên thâm cả Nho, Phật, Lãọ Nàng có tài ứng đối, dùng điển tích rất tài tình, Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng Trần Ngọc Quán phục nàng: Tài cao nhã phượng thế gian kinh, Nguyễn Du so sánh nàng với Tiểu Thanh; Trương Đăng Quế, Hoàng Diệu Khuê, Trương Bỉnh Thuyên sánh nàng với Ban Chiêu, Tạ Huệ Liên, Tô Tiểu Muội, Sái Cơ của Trung Quốc, và đem Mai Am nữ sĩ, tức Công Chúa Lại Đức so sánh với Hồ Xuân Hương, (dĩ nhiên không thể sánh công chúa triều đình với một nhà thơ dâm tục được.)
Hồ Xuân Hương lận đận trên đường tình ái, trên bốn mươi mới gặp được Tri phủ Tam Đái tức Vĩnh Tường, sau được thăng lên làm Hiệp Trấn Yên Quảng là Trần Phúc Hiển, được ba năm Phúc Hiển bị vu tội tham nhũng, nhưng thật ra Phúc Hiển chết là vì vây cánh của Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường bị phe Lê Chất, Lê Văn Duyệt diệt, Thi tướng tao đàn Cổ Nguyệt đường là Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng Trần Ngọc Quán cũng tự tử chết.
Tác phẩm nổi bật nhất của bà là số thơ Nôm trong Xuân Hương Thi Tập (dù có đôi bài đáng nghi vấn). Ngoài ra bà còn để lại tập thơ chữ Hán tựa đề Lưu Hương Ký.
Thơ văn bà có ý lẳng lơ, mai mỉa, tinh nghịch, táo bạo, nhưng chứa chan tình cảm lãng mạn, thoát ly hẳn với những lễ giáo phong kiến thời bấy giờ.