Ôn tập bài Tràng Giang

ÔN TẬP BÀI: TRÀNG GIANG

HUY CẬN

I – TIỂU DẪN

1 – Nhà thơ Huy Cận

–  Huy Cận (1919 – 2005) tên khai sinh là Cù Huy Cận, quê ở huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh. Thuở nhỏ ông học ở quê, sau đó vào Huế học hết trung học. Năm 1939, ông ra Hà Nội học Trường Cao đẳng Canh nông.

–  Từ năm 1942, ông tích cực tham gia hoạt động trong Mặt trận Việt Minh, rồi tham gia Quốc dân đại hội Tân trào. Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia hoạt động chính quyền cách mạng, giữ nhiều trọng trách khác nhau : Thứ trưởng Bộ Văn hoá, Bộ trưởng đặc trách công tác Văn hoá – Nghệ thuật tại Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng,…

–  Ông là một trong những tác giả xuất sắc của phong trào Thơ mới. Năm 1996, ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

–  Các tác phẩm chính :

   +  Trước Cách mạng : Lửa thiêng (tập thơ, 1937 – 1940), Kinh cầu tự (văn xuôi, 1942)…

   +  Sau Cách mạng : các tập thơ Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960)…

–  Thơ Huy Cận hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí.

2 – Bài thơ Tràng giang

Tràng giang là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Huy Cận. Theo tác giả, bài thơ này được viết vào mùa thu năm 1939 (in trong tập Lửa thiêng) và cảm xúc được khơi gợi chủ yếu từ cảnh sông Hồng mênh mang sông nước.

3 – Nhan đề và lời đề từ

a). Nhan đề

 –  Tràng (trường) : dài ; giang : sông. Tràng giang (trường giang) : sông dài.

  –  Tràng giang còn gợi hình ảnh con sông rộng (do âm vang của việc láy vần “ang”). Trường giang chỉ là “sông dài”.

  –  Tràng giang là cách diễn đạt mới trong khi Trường giang dễ bị nhầm lẫn với tên một con sông ở Trung Quốc và trong thơ Đường.

b). Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài

 –  “Trời rộng”, “sông dài” mang nghĩa khái quát về không gian nghệ thuật của bài thơ. Đó là một khung cảnh sông nước mênh mông, vô biên.

–  “Bâng khuâng”, “nhớ” khái quát lên tâm trạng buồn, cô đơn bởi sự xa cách, chia li giữa “trời” và “sông”.

-> Câu đề từ đã khái quát được nội dung tư tưởng của cả bài thơ, vừa thâu tóm cảm xúc chủ đạo vừa gợi ra nét nhạc chủ âm cho cả bài thơ.

II – VĂN BẢN

1. LỜI GIỚI THIỆU

Bài thơ Tràng giang (in trong tập thơ Lửa thiêng) là một tuyệt tác của nhà thơ Huy Cận nói riêng và của phong trào Thơ mới (1932 – 1945) nói chung. Đây là một bài thơ với xúc cảm vũ trụ không những chan chứa một nỗi buồn mênh mông xa vắng mà còn thấm đượm một tình yêu quê hương đất nước lắng sâu. Nói theo Xuân Diệu “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông đất nước do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc”.

2. NỘI DUNG CHÍNH

Tràng giang là bài thơ được sông Hồng gợi tứ. Trước Cách mạng, nhà thơ thường có thú vui vào chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng Chèm, Vẽ để ngoạn cảnh Hồ Tây và sông Hồng. Phong cảnh sông nước đẹp gợi cho nhà thơ nhiều cảm xúc. Tuy nhiên bài thơ không chỉ do sông Hồng gợi cảm mà còn mang cảm xúc chung về những dòng sông khác của quê hương. Tràng giang là một bài thơ tình và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn…

1 – Khổ thơ một

Nhìn dòng sông lớn gợn những lớp sóng, nhà thơ cảm thấy nỗi buồn của mình cũng đang trải ra như những lớp sóng :

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyềnnước vốn là hai khái niệm gần gũi nhưng rồi không phải bao giờ cũng gắn bó. Thuyền gợi lên một cái gì nổi nênh như kiếp người trong cuộc đời cũ. Nhất là ở đây, con thuyền lênh đênh thả mái xuôi dòng và như có một nỗi buồn chia li, xa cách đang đón đợi. Từng đợt sóng “gợn” nhẹ cứ kéo dài vô tận làm nỗi buồn của con người càng thấm sâu, da diết khó tả. “Buồn điệp điệp” đã diễn tả nỗi buồn lớp lớp, buồn tầng tầng, buồn không nguôi của nhà thơ.

Hai dòng thơ có ý nghĩa sâu xa về bóng dáng con người trong dòng đời. Bởi sông là đời, thuyền là người, sóng “điệp điệp” là nỗi buồn đeo mang của thân phận kiếp người.

Trên dòng sông ấy, bao nhiêu ngả nước là bấy nhiêu ngả sầu và cảnh tượng “một cành khô” lạc mấy dòng càng nhấn mạnh nỗi lạc loài của kiếp người trong xã hội cũ :

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả ;

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

 Như trên đã phân tích, thuyền và nước ở đây không hề gặp nhau, gần nhau mà giữa “trăm ngả” cuộc đời thuyền về một nơi, nước lại đi một ngả. Sự lạc lối không cùng hướng này đã gợi lên trong thi nhân một nỗi “sầu” bơ vơ, cô đơn ngay giữa cuộc đời.

Hình ảnh một cành củi khô đơn lẻ trôi bồng bềnh, trên dòng sông mênh mông sóng nước gợi lên nỗi buồn về kiếp người nhỏ bé, vô định. Nó là biểu tượng cho tâm trạng của con người, nhất là của giới thanh niên tiểu tư sản thời ấy.

Ở khổ thơ đầu, nghệ thuật đối của thơ Đường đã được vận dụng hết sức linh hoạt đã khiến cho bài thơ một mặt vẫn phát huy được thế mạnh của loại thơ cổ, mặt khác nó làm cho giọng điệu của bài thơ uyển chuyển, linh hoạt, tránh được sự khuôn sáo, cứng nhắc dễ thấy đối với một số bài thơ Đường luật hồi đầu thế kỉ XX. Bên cạnh đó, cách dùng từ láy như “điệp điệp”, “song song” cũng gợi âm hưởng cổ kính, trang trọng. Tuy nhiên, Tràng giang vẫn là một bài thơ hiện đại, ở đoạn thơ này có thể thấy ở hình ảnh, thi liệu và cảm xúc :

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả ;

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Thơ xưa thường nói đến những hình ảnh cao sang mà giới “tao nhân, mặc khách” thường ưa thích như trăng hoa, tuyết nguyệt… Đến thời kì thơ mới, những hình ảnh “bình dân” như “củi một cành khô”, “con nai vàng ngơ ngác”, con hổ “gậm một mối căm hờn trong cũi sắt”… như là chỉ dấu về một “cuộc cách mạng trong thơ” (Hoài Thanh).

Tóm lại, khổ thơ đầu là nỗi buồn mênh mang trong lòng thi nhân được gợi lên từ không gian “tràng giang”. Cái hay ở khổ thơ là nghệ thuật thường thấy của Đường thi, nhưng cũng rất mới mẻ của phong trào Thơ mới.

2 – Khổ thơ hai

Từ dòng sông, sóng gợn, con thuyền xuôi mái và cành củi khô bập bềnh trôi dạt trên sóng… ở khổ thơ một, Huy Cận nói đến cảnh tràng giang một buổi chiều mênh mông, vắng vẻ. Và, nỗi buồn càng như thấm sâu vào cảnh vật.

Trước hết, có thể thấy cảnh tràng giang mênh mông, vắng vẻ ở hai câu thơ đầu :

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Hai câu thơ chứa đựng những nét chấm phá về các bãi cồn trên dòng sông. Không gian hầu như vắng lặng, cảnh vật nhuốm vẻ đìu hiu, tàn tạ… Thật không gì vui bằng lúc chợ đông và buồn bằng khi chợ chiều tan tác, không có tiếng người thì cảnh vật hoang vắng và xa lạ. Cảnh vật vắng vẻ đã khiến cho thi nhân càng buồn sầu, cô đơn, khát khao được nghe những tiếng vọng thân thiết của cuộc đời.

Các từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” được dùng rất đắt, vừa có giá trị tạo hình, vừa giàu khả năng biểu đạt tâm trạng. Theo Huy Cận, từ “đìu hiu” ông học được trong bản dịch Chinh phụ ngâm :

Non kì quạnh quẽ trăng treo

Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.

Trong câu thơ thứ hai, sự xuất hiện của “tiếng làng xa vãn chợ chiều” chỉ làm cảnh buồn hơn, bởi đây là “âm thanh” vọng lên từ tâm tưởng, từ niềm khao khát của nhà thơ.

Tiếp theo là cảnh tràng giang mênh mông, vắng vẻ ở hai câu thơ sau :

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót ;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Hai câu thơ mở rộng không gian miêu tả ra nhiều chiều với hình ảnh của trời lên – cao, sông dài – dài, trời rộng – rộng… Theo hướng mở rộng đó của không gian, nỗi sầu của thi nhân như cũng được toả lan ra đến vô cùng.

Hình thức đối của cổ thi được sử dụng khá linh hoạt trong hai câu thơ, tạo nên sự hài hoà về hình ảnh và nhịp điệu. Cùng với việc vẽ ra những chuyển động ngược hướng (nắng xuống, trời lên) ở câu ba, tác giả đã dùng dấu phẩy ngắt câu thơ thứ tư thành ba phần, biểu thị ba hình ảnh độc lập : sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Nhờ lối diễn tả này, tính chất phân li của cuộc đời được tô đậm thêm.

Đặc biệt, cách kết hợp từ trong câu ba cũng thật độc đáo. Khi viết “sâu chót vót”, tác giả không chỉ muốn diễn tả độ cao của bầu trời mà còn muốn biểu hiện cảm giác chới với, rợn ngợp của con người khi đối diện với cái hun hút, thăm thẳm của vũ trụ.

Tóm lại, không âm thanh của cuộc sống, không sự vật của con người, không biểu tượng của gia đình, quê hương… không có gì cả ! Một thi nhân mất nước chưa tìm được hướng đi cho mình, lại mẫn cảm trước thiên nhiên và cuộc đời, làm sao không có nỗi buồn như thế được ?

3 – Khổ thơ ba

Đỉnh điểm của sự cô đơn của thi nhân trong Tràng giang tập trung vào khổ thơ thứ ba này.  Với hàng loạt từ phủ định, làm mất hoàn toàn những tín hiệu cuộc sống, con người vì thế trở nên bơ vơ đến đáng thương :

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

… …

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Trong không gian buồn, xa vắng, ai cũng muốn tìm đến những dấu vết gần gũi của sự sống, của cuộc đời. Nhưng cuộc sống ở đây như đứt đoạn chia lìa, dòng sông mênh mông kia không có dù là một chuyến đò, không có lấy một chiếc cầu để nối kết con người với con người :

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật.

Cuộc sống hiện lên với những hình ảnh trơ trọi, quạnh hiu của bờ bãi, của cánh bèo dạt trôi. Bóng dáng con người dường như biến mất trong cái không gian của ngút ngàn hoang vắng : “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng … Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.

Những câu thơ làm ta nhớ đến tiếng gọi đò da diết trong “Bến Mi Lăng” của một nhà thơ cùng thời :

Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách

Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng

(Yến Lan)

Tóm lại, cả bốn câu thơ đều buồn, mỗi câu mang một nỗi buồn riêng. Cảnh vật có đổi thay (so với những khổ thơ trên) nhưng cùng một dáng vẻ, tất cả đều trôi nổi, mông lung, vô định. Không có những dấu vết của con người. Vì vậy, thi nhân vẫn buồn !

4 – Khổ thơ bốn

Khổ thơ tuy chỉ có bốn dòng nhưng đã khái quát tấm lòng, tình cảm, tư tưởng của nhà thơ cũng như bút pháp nghệ thuật của ông.

Hai câu thơ đầu trong khổ thơ cuối khắc hoạ lại cảnh tượng rực rỡ, kì vĩ khi mặt trời xuống thấp, hắt ánh sáng lên các lớp mây cao cuồn cuộn đùn ra như những núi bạc:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa

Tác giả rất thích chữ “đùn”, tả mây như có sức đẩy ở bên trong, cứ trồi ra hết lớp này đến lớp khác. Theo tác giả, câu thơ đầu ông học được chữ “đùn” trong bài dịch thơ Đỗ Phủ :

Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm

Mặt đất mây đùn cửa ải xa.

(Thu hứng)

Còn ở câu thơ thứ hai, ba chữ “bóng chiều sa” in lên núi bạc đùn lên, còn dáng chim nghiêng cánh nhỏ tương phản với “lớp lớp”, “núi bạc”, càng trở nên nhỏ nhoi, cô độc.

Hai câu thơ sau của khổ thơ cuối là nỗi khát khao của con người tìm về quê nhà :

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Lòng quê, có người hiểu là lòng riêng, tấm lòng mộc mạc, nhưng cũng nhiều người hiểu là lòng nhớ quê hương. Thực vậy, “dợn” là hình ảnh mặt nước chuyển động nhỏ, lên xuống rất nhẹ khi bị xao động. Ở câu thơ này, lòng nhớ quê hương bỗng “dợn” lên như sóng tâm hồn, khi phóng tầm mắt nhìn xa con nước mênh mông, nhưng không phải chỉ “dợn” lên một lần rồi thôi, mà là “dợn dợn” nghĩa là xao động liên tục.

Lòng nhớ quê hương cứ xao động trong tâm hồn trước cảnh sông nước hoang vắng đìu hiu, trống trải khiến nhà thơ phải bộc bạch : Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Âm hưởng thơ Đường triền miên trong khổ thơ cuối, như niềm lưu luyến nhớ quê của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc lâu :

Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

(Tản Đà dịch).

Nhà thơ đời Đường có “khói sóng” trên sông mới gợi niềm thương nhớ quê nhà, còn Huy Cận thì chẳng cần ngoại cảnh mà vẫn đủ khơi dòng nhớ mong. Lúc này, cái buồn đã tương đối thành hình, không chỉ còn là cảm giác sầu mênh mông vời vợi do xúc cảnh sinh tình khi ngắm nước trường giang. Vì lúc bấy giờ, nhà thơ buồn hơn Thôi Hiệu.

Tóm lại, khổ thơ cuối đã mở ra những tình cảm đẹp của nhà thơ và gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Lời thơ mãi mãi thức tỉnh lòng hướng về quê hương và tình người ấm áp của mỗi chúng ta.

3. KẾT LUẬN

Tràng giang là một thi phẩm độc đáo của Huy Cận, vừa mang vẻ đẹp cổ điển vừa mang vẻ đẹp của thơ mới. Qua bài thơ, Huy Cận đã bộc lộ nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha.