Văn học dân gian Quảng Trị ( Phần 6)

VĂN HỌC DÂN GIAN QUẢNG TRỊ – PHẦN 6 ( HẾT)

VII. Hò:

Hò là thể loại dân ca phong phú, đa dạng, có tính quần chúng và mang nét đặc thù Quảng Trị Đó là một hình thức sinh hoạt sôi nổi, được diễn ra trong công việc đồng áng, lễ hội hay là một cách giải trí trong buổi nông nhạn Có nhiều điệu hò và cách hò tùy theo không gian thời gian, lao động nặng nhọc khác nhaụ Quét vôi thì hò hụi, giã gạo thì hò khoan, hò hô, chèo đò thì hò mái nhì, nếu đò mắc cạn thì hò mái đảy, hò rủ rơm, hò đánh bài thai, bài chòi, hò kéo gỗ, hò ru và hò đối đáp… Ở đây chúng tôi xin giới thiệu mấy điệu hò tiêu biểu:

1. Hò ru:

Tất cả chúng ta đều lớn lên từ 4 tao nôi và lời ru của Mẹ. Làn điệu ngọt ngào êm dịu như đã thấm vào máu thịt xương tủy và cũng lớn lên theo giòng đời . Qua năm tháng nổi trôi, lời ru luôn luôn là sự gợi nhắc tình cảm, nghe mãi nhưng nghe lại vẫn không khỏi bồi hồi:

Khi con thức Mẹ cho con bú

Khi con lú Mẹ lại ru hời

Nuôi con cực lm con ơi

Chỉ mong cho con lưng dài vai rộng

Để lấp biển vá trời như ai !

Mẹ thương con ngồi Cầu Ái Tử

Vợ trông chồng đứng núi Vọng Phu

Mai đây bóng xế trăng lu

Con ve kêu mùa hạ

Biết mấy thu đợi chờ

Em nghe anh đau đầu chưa khá

Em đây băng đồng chỉ sá bẻ nạm lá qua xông

Ước làm sao cho nên đạo vợ chồng

Đổ mồ hôi ra em chặm

Lại ngọn gió lồng em che

Ru hời ru hỡi là ru

Bên cạn thời chống bên su thời chèo

Xây thành đp lũy trên non

Cm hoa dưỡng nước nuôi con tháng ngày

Một mai lửa dậy khói bay

Con ơi ! Mẹ không biết sống rày thác mai

Ơn cha ba năm báo bổ

Nghĩa mẹ chín tháng cưu mang

Bên ướt Mẹ nằm bên ráo con lăn

Lấy chi trả nghĩa sinh thành

Lên non tạc đá xây lăng phụng thờ

2. Hò đối đáp:

Là một thể loại văn nghệ tự túc độc đáo dược phổ biến rộng rãi trong mỗi làng quê Quảng Trị trong thập niên 30, 40. Những lúc nông vụ đã tạm ổn, vào những đêm trăng, đâu đâu cũng nghe tiếng hò rộn ràng sôi nổi tạo nên một không khí tưng bừng vui vẻ. Có thể chia làm hai loại: Hò ân tình và Hò đâm bắt.

a) Hò ân tình

Loại này đơn giản dễ hò, có thể lấy từ câu đố, một cốt chuyện đã có sẵn, chỉ cần nhập vai là hò được hoặc đôi bên đối đáp về những chuyện trời trăng mây nước vô thưởng vô phạt Địa điểm hò thường được chọn ở những nhà rộng rãi thoáng mát để có được đông đảo khán giả tham dự. Thường thì các cô gái đã đợi sẵn còn các chàng còn vòng vòng ngoài ngõ hay trước sân:

Ai đứng ngoài đường cho muỗi cắn ho kêu

Vô đây phân giải đôi điều cho vui

Các chàng chỉ đợi có thế mạnh dạn bước vào:

Chào lê chào lựu chào đào

Ai xa chào trước ai gần chào sau

Chào bên nam mất lòng bên nữ

Chào người quân tử sợ dạ thuyền quyên

Cho anh chào chung một tiếng kẻo chào riêng khó chào

Ai có chồng thì khuyên chồng đừng sợ

Ai có vợ thì xin vợ đừng ghen

Ra đây ta hò hát cho quen

Rạng ngày ai về nhà nấy…

Khá thể ngọn đèn hai tim

Đó là màn dạo đầu, cuộc hò sẽ tiếp tục:

Nữ: Đố anh chi sắc hơn dao

Chi sâu hơn biển, chi cao hơn trời

Nam: Con mắt em sắc hơn dao

Lòng sâu hơn biển, trán cao hơn trời

Nữ: Bánh cả mâm răng kêu bánh ít

Trầu cả chợ răng gọi trầu không

Ai mà đối đặng làm chồng nữ nhi

Nam: Chuối không đi tây răng kêu chuối sứ

Cây không đi học răng kêu cây thông

Anh đã đối đặng em theo chồng về mau

Nữ: Nghe anh thuộc sách Kinh Thi

Hỏi anh con cá nằm dưới cỏ gọi là con cá chi rứa anh hè

Nam: Anh đây thuộc sách Kinh Thi

Con cá nằm dưới cỏ anh nghĩ là con cá tràu

Nữ: Em như bông sen trong hồ

Các anh như bèo như bọt nhìn chi được cơ đồ nơi em

Nam: Nước lên cho sóng cuộn theo

Cho sen chìm xuống bèo trèo lên trên

Nữ: Em đây như con rồng vàng

Chín tầng mây phủ nằm ngang giữa trời

Nam: Anh đây có phép thần thông

Vén mây cỡi gió bắt con rồng coi chơi

Nữ: Em đây như chiếc chuông vàng

Treo trong thành nội có hàng ngàn quân canh

Nam: Quân canh dù mấy chục ngàn

Dùi chiêng anh mang sẵn, anh nện chuông vàng đứt đôi

Kiến bò cột sắt sao mòn

Con vò vò xây tổ sao tròn mà xây

Kiến bò cột sắt thành đàn

Con vò vò xây tổ khám vàng cũng xây

Thương thay các cậu chự bò

Cái lưng môốc thếc thếc

Bộ giò đen thùi thui

Em về dở sách ra dò

Cha em lúc trước cũng chự bò như anh

Trai không vợ như chợ không đình

Mưa dông một trộ ghé mình vào đâu

Trai chưa vợ lo phò vua vệ quốc

Chợ không đình tại thợ mộc suy vi

Sao không lo phận thiếp lại đi hỏi chàng

b) Hò đâm bắt:

Thường là đối đáp giữa trai và gái, loại này đòi hỏi một khả năng thiên phú: Thông minh, nhanh nhẹn, tháo vát. Đối thủ luôn luôn tạo bất ngờ, không có thì giờ suy nghĩ, chọn lựa. Người ra chiêu có lợi thế hơn (thường là nữ) đi những đường quyền móc họng, phạm thượng. Ngôn ngữ ở đây thuộc loại dân gian dung tục, các danh hò thường không né tránh bất cứ một từ ngữ nào miễn đạt được hết ý và đưa đối phương vào thế hiểm hóc (Nhân đây cũng xin mở một dấu ngoặc về loại văn chương này vì gần đây trên văn đàn hải ngoại, nhà lý luận phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc có đưa ra bản thảo về ngôn từ dung tục trong văn học dân gian miền Nạm đại khái như: Vân Tiên ngồi núp bụi môn. Chờ khi trăng lặn… Nguyệt Nga…) bởi thế trong phần lược kê dưới đây nếu có một vài từ đại loại như thế, kính mong các bậc trưởng thượng thông cảm:

Trong đêm hò tại vùng Long Quang Linh Yên, một siêu hò đã đánh đòn phủ đầu các nam nhi:

Anh ra chi mỗi tháng mỗi ra

Cực lòng em lắm mẹ cha hỏi hoài

Mới nghe tưởng là một lời trách móc trữ tình, thực ra chị này đem “việc riêng” của mình ra để so sánh xưng tụng thật là hết ý . Một số ngượng nghịu bỏ về. Có người đáp lại nhưng sống sượng, thiếu hấp dẫn:

Anh ra ba em cũng ra

Anh còn sống, ông cụ thác xuống ngã ba mất rồi

Một hôm khác tại Gia Đẳng:

Tiếng đồn em học hết sách quốc ngữ, hết chữ Kinh Thi

Con bò cái đi trước, con bò đực đi sau, nó cười chi rứa eng hè

Anh học hết sách quốc ngữ, hết chữ Kinh Thi, con bò cái đi trước, con bò đực đi sau nói cười nó cọ, nó đo-u sao thiếp không biết lại đi hỏi chàng

Vùng Đá Nầm, Đá Nổi ở Ba Lòng cũng một thời nhộn nhịp: những lúc nông nhàn trai tráng miệt đồng lên khai thác lâm sản và những đêm hò lại diễn ra:

Liệu bề đát được thì đan

Chớ đừng đan rồi để đó mà thế gian chê cười

Cô gái có vẻ kênh kiệu, coi thường chàng trai, nhưng chàng ta bình tĩnh tung đòn phản công rất ngoạn mục:

Anh đây đan cũng giỏi, đát cũng tài

Lận thì đè côi đè xuống, còn nức thì xỏ ngoài xỏ vô

Đến hiệp hai thì nam danh hò bối rối:

Ra đường lại gặp anh Ba

Anh ở “trung nớ” anh ra răng chừ ? !!!

Chàng ta xin khất, đi tìm bà cô: là một danh hò đã gác kiếm, sau khi hối lộ một xấp thuốc Tầm Bỏi, bà đã chỉ cho câu đáp, mặc dầu không sâu sắc lắm nhưng cũng đỡ mất mặt:

Anh ở trung nớ mới ra bựa qua

Cùng ra có cậu bên nhà kết nghĩa thầy trò

Anh nhanh chân anh tới trước còn cậu lò dò theo sau !!!

Có những cô gái thật là lì lợm lém lỉnh đôi khi làm các chàng trai yếu bóng vía phải ngọng nghịu chùn chân:

Anh làm thợ mộc khéo đã ra chi khéo

Đóng bức đố xéo đã ra chi tài

Răng không giơ cái lại chàng ra chắn mộng để thòi lòi mộng ra

Tuy thế vẫn có những nam nhi thông minh lanh lợi, đáp lại vô cùng thỏa đáng:

Anh đã đưa cái lại chàng ra chắn mộng

Mà thầy mẹ bên nhà khoát khoát khoan khoan

Để khi đi về móc áo, lỡ chừng treo khăn

Cũng đã có cô gái bạo mồm bạo miệng tung chưởng vào đối phương:

Em mua cho anh cái dù tám cóng

Dưới có mốc đồng

Răng anh không đội

Để đầu không rứa hè

Nhưng đối thủ của nàng không phải tay vừa, đã bình tĩnh phản công:

Cái dù tám cóng dưới có cái móc đồng

Em đem về cho cha em đội cho nội em che

Phận anh là rễ đội nón tre quen rồi

Đôi khi lời đối đáp thật hóm hỉnh, thông minh:

Tiếng đồn em lấy chồng già

Đêm nằm em thấy ớt cà ra răng

Tre già còn dẻo hơn măng

Ớt cà tra có hột, chớ hơn thằng ớt tơ

Văn nghệ dân gian như đã nói là một chất liệu ngôn ngữ hòa tan trong tâm thức của mọi người, nó như mạch ngầm ẩn dấu đâu đó tưởng chừng quên nhưng chỉ một giây lắng đọng khắc khoải, sẽ bừng dậy những nỗi nhớ niềm thương da diết. Đó là một kho tàng vô tận tiềm ẩn trong mỗi người Quảng Tri, không thể có một công trình tìm kiếm hoàn chỉnh. Trong phần lược ghi với một ít nội dung tượng trưng, hy vọng tạo được một khoảnh khắc thanh thản khi nhớ về quê hương.