II. Phong trào dân tộc dân chủ 1919 – 1930
1. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ( XEM LẠI ):
2. Phong trào theo khuynh hướng vô sản:
a. Phong trào công nhân:
– Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong lần khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, ngày càng tăng về số lượng. Dưới ảnh hưởng của trào lưu cách mạng vô sản, phong trào công nhân ngày càng phát triển thep phương hướng từ tự phát đến tự giác.
– 1919-1925: Đã nổ ra 25 cuộc đấu tranh, tiêu biểu:
+ Năm 1922, có các cuộc bãi công của công nhân và viên chức các cơ sở công thương tư nhân ở Bắc Kì và công nhân các lò nhuộm ở Sài Gòn – Chợ Lớn.
+ Năm 1924 có các cuộc bãi công của công nhân các nhà máy dệt, rượu, xay xát ở Nam Định, Hà Nội, Hải Dương.
+ Tháng 8 – 1925, thợ máy xưởng Ba Son tại cảng Sài Gòn bãi công, không chịu sửa chữa chiến hạm Misơlê của Pháp trước khi chiến hạm này chở lính sang đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân Trung Quốc. Lần đầu tiên trong cuộc đấu tranh này đã xuất hiện ý thức giai cấp, ý thức chính trị và tinh thần đoàn kết quốc tế.
+ Về tổ chức, năm 1920, có tổ chức Công hội bí mật do Tôn Đức Thắng sáng lập ở Sài Gòn.
+ Nhận xét:
Phong trào công nhân có bước phát triển mới so với trước Chiến tranh thế giới thứ nhất: hình thức bãi công đã trở nên phổ biến hơn, qui mô lớn hơn và thời gian dài hơn.
Tuy nhiên khẩu hiệu đấu tranh chủ yếu vẫn là kinh tế. Giai cấp công nhân Việt Nam chưa ý thức được sứ mệnh lịch sử của mình, còn thiếu một tổ chức lãnh đạo thống nhất và một đường lối chính trị đúng đắn. Phong trào vẫn còn dừng ở trình độ tự phát và còn phụ thuộc vào phong trào yêu nước nói chung.
– 1926 – 1929:
+ Tháng 6 – 1925, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên được thành lập. Thông qua những hoạt động của tổ chức này, phong trào công nhân ngày càng phát triển mạnh.
+ Trong hai năm 1926 – 1927, nổ ra khoảng 20 cuộc bãi công, sôi nổi nhất là phong trào công nhân đồn điền.
+ Năm 1928, sau khi có chủ trương “vô sản hoá”, nhiều cán bộ của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đã đi vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, cùng sinh hoạt và lao động với công nhân để tuyên truyền vận động cách mạng, nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân, làm cho phong trào công nhân lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng.
+ Trong hai năm 1928 – 1929, có khoảng 40 cuộc bãi công của công nhân nổ ra từ Bắc chí Nam, nhất là ở các trung tâm kinh tế, chính trị.
+ Về tổ chức: Tại nhiều nhà máy, xí nghiệp, sự lãnh đạo của tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên hay Tân Việt cách mạng đảng được mở rộng. Công hội Nam Kì đã bắt liên lạc với Tổng liên đoàn lao động Pháp để tranh thủ sự ủng hộ quốc tế đối với phong trào công nhân Việt Nam.
+ Điều đáng chú ý là trong phong trào, những khẩu hiệu kinh tế được kết hợp chặt chẽ với các khẩu hiệu chính trị; có sự liên kết của công nhân nhiều nhà máy, nhiều địa phương, nhiều ngành kinh tế.
+ Nhận xét:
Giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng giác ngộ về chính trị, ý thức giai cấp ngày càng rõ rệt, đang đi dần vào cuộc đấu tranh có tổ chức.
Phong trào công nhân đang chuyển biến mạnh mẽ từ tự phát đến tự giác, có sức quy tụ và dẫn đầu phong trào yêu nước nói chung.
* Ý nghĩa:
– Phong trào công nhân ngày càng phát triển tạo cơ sở để tiếp thu ánh sáng của thời đại, nhất là lí luận giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc.
– Sự phát triển của phong trào công nhân nói riêng, phong trào yêu nước nói chung đặt ra yêu cầu phải có sự lãnh đạo của một Đảng Cộng sản. Yêu cầu đó tác động vào các tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên và Tân Việt cách mạng đảng, dẫn đến cuộc đấu tranh nội bộ và sự phân hoá tích cực trong các tổ chức này, hình thành nên ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam, và cuối cùng là sự thống nhất các tổ chức đó thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
– Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930 là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam sục sôi trong 20 năm đầu thế kỷ XX.