TRUYỆN AN DƯƠNG VƯƠNG VÀ MỊ CHÂU – TRỌNG THUỶ
(Truyền thuyết)
I – GỢI DẪN
1. Thể loại
Đây là một truyền thuyết rất quen thuộc trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, thuộc chủ đề giữ nước – chủ đề lớn của thể loại truyền thuyết. Lấy đề tài từ lịch sử nhưng truyền thuyết không phải là lịch sử.
Truyền thuyết là “nghệ thuật lựa chọn các sự kiện và nhân vật để xây dựng các hình tượng nghệ thuật, phản ánh tập trung nhất lịch sử của địa phương, quốc gia, dân tộc… Nếu lịch sử cố gắng phản ánh chính xác các sự kiện và nhân vật, thì truyền thuyết lại quan tâm hơn đến sự lay động tình cảm và niềm tin của người nghe sau những sự kiện và nhân vật đó.” Truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thuỷ thể hiện rất rõ đặc điểm này của truyền thuyết.
2. Tác phẩm
Tác giả dân gian kể chuyện An Dương Vương xây thành, chế nỏ giữ nước và bi kịch tình yêu Mị Châu – Trọng Thuỷ. Câu chuyện là một bài học về tinh thần cảnh giác đối với giặc ngoại xâm. Vì chủ quan, tin tưởng vào nỏ thần và tin vào cha con Triệu Đà mà cha con An Dương Vương đã để đất nước rơi vào tay giặc.
3. Tóm tắt
An Dương Vương xây mãi không xong thành, cứ xây đến đâu lại đổ đến đấy. Nhưng sau nhờ Rùa thần giúp đỡ, thành xây nửa tháng đã xong. Thần lại cho thêm móng rùa làm nỏ liên châu. Triệu Đà sang xâm lược nhưng thua lớn, bèn xin cầu hoà. Đà cầu hôn Mị Châu cho con trai là Trọng Thuỷ. Trọng Thuỷ dụ dỗ Mị Châu đánh tráo nỏ thần mang về nước rồi đem đại binh sang đánh. Vua chủ quan điềm nhiên ngồi đánh cờ. Khi quân Đà tiến sát, Vua mang nỏ ra bắn nhưng vô hiệu, bèn đem theo Mị Châu chạy về phương Nam. Chạy tới biển, đường cùng, vua cầu cứu Rùa vàng. Nghe Rùa vàng kết tội, vua liền rút gươm chém Mị Châu, rồi cầm sừng tê giác bảy tấc theo Rùa vàng xuống biển. Trọng Thuỷ đuổi theo đến biển, thấy xác vợ, đem về táng ở Loa Thành rồi lao đầu xuống giếng mà chết. Người đời sau mò được ngọc ở biển Đông đem rửa nước giếng này thấy ngọc càng thêm sáng.
4. Cách đọc và kể
Đọc theo giọng kể. Chú ý đổi giọng khi đọc (hoặc kể) các câu thoại trong các đoạn văn. Riêng giọng vua khi chạy đến bờ biển thể hiện giọng cầu khẩn, giọng Mị Châu khi đó khẩn thiết, buồn rầu.
II – KIẾN THỨC CƠ BẢN
Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ thể hiện một cách đặc sắc ý thức lịch sử của nhân dân – thể hiện tập trung ở vai trò của An Dương Vương trong sự nghiệp giữ nước. Vai trò ấy thể hiện trước hết bằng những chi tiết cụ thể : đó là việc nhà vua dời đô về Cổ Loa, và cho xây thành. Nhưng thành đắp đến đâu lại đổ tới đó, bèn lập đàn cầu đảo bách thần. Được thần Kim Quy giúp đỡ, xây thành xong, vua còn hỏi thần Kim Quy : “Nay nếu có giặc ngoài thì lấy gì mà chống ?” và chế “Linh quan Kim Quy thần cơ”. Trước cảnh nước mất nhà tan, được Rùa Vàng cho biết nguyên nhân bởi chính sự nhẹ dạ cả tin của con gái, vua tuốt kiếm chém Mị Châu.
Vì quá thương tiếc Mị Châu nên Trọng Thuỷ đã tự vẫn sau khi giúp Triệu Đà chiếm được Âu Lạc. Có thể nói : Mị Châu là con người thuần nhất của tình yêu, sự chung thuỷ. Trọng Thuỷ cũng vậy, nhưng Trọng Thuỷ còn một tư cách khác, đó là tư cách của một nam nhi với trách nhiệm cao đối với vua cha, đất nước. Cho nên, sau khi hoàn thành trách nhiệm đối với vua cha, Trọng Thuỷ lại sống trọn với tình yêu. Cái chết của chàng là minh chứng cho điều đó. Và không phải ngẫu nhiên mà tác giả dân gian để cho nước giếng nơi Trọng Thuỷ tự vẫn có tác dụng làm sáng trong thêm ngọc trai mà Mị Châu đã hoá thân.
Truyện phản ánh bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu. Bi kịch mất nước thể hiện qua tình tiết An Dương Vương vô tình gả con gái cho con trai của kẻ thù, thiếu cảnh giác, cậy có nỏ thần nên phải bỏ chạy khi bị giặc tấn công. Mị Châu nhẹ dạ cả tin, cho Trọng Thuỷ xem trộm nỏ thần, dẫn đến tai hoạ nước mất, nhà tan. Bi kịch tình yêu thể hiện qua chi tiết cái chết oan nghiệt của Mị Châu, Trọng Thuỷ cũng lao đầu xuống giếng, đôi lứa vĩnh viễn chia lìa.
Xung quanh hành động của Mị Châu, có ý kiến cho rằng nàng là một người vợ hiền, việc làm theo lời chồng là không có tội ; cũng có ý kiến cho rằng Mị Châu là kẻ đáng lên án. Vấn đề này cần được nhìn nhận một cách toàn diện và khách quan để hiểu được dụng ý của tác giả dân gian. Thái độ của nhân dân không hề đơn giản, một chiều. Cho nên, cần tránh tuyệt đối hoá, chỉ khen hoặc chê, minh oan hoặc buộc tội ; bởi với tư cách là một người vợ, Mị Châu là người đáng được đồng cảm, đáng thương ; với tư cách là một công dân, lại là công chúa, phải có trách nhiệm với quốc gia, Mị Châu là người đáng trách và là bài học sâu sắc về tinh thần cảnh giác. Hai tư cách ấy cùng tồn tại trong một thực thể – Mị Châu.
Trong truyện, những chi tiết kì ảo có vai trò hết sức quan trọng nhằm dẫn dắt diễn biến của câu chuyện và là yếu tố thể hiện thái độ, tình cảm của nhân dân đối với các nhân vật, đối với lịch sử : thần Rùa Vàng giúp An Dương Vương xây thành ; thần cho vua vuốt để làm lẫy nỏ thần bắn một phát chết hàng vạn tên giặc ; thần Rùa Vàng hiện ra kết tội Mị Châu ; máu Mị Châu chảy xuống biển thành ngọc ; vua An Dương Vương cầm sừng tê bảy tấc theo Rùa Vàng rẽ nước xuống biển ; Trọng Thuỷ đem xác Mị Châu về chôn, xác biến thành ngọc thạch ; ngọc trai rửa nước giếng Trọng Thuỷ tự vẫn thì trong sáng thêm.
Hình ảnh ngọc trai – giếng nước được xem là một biểu tượng về tình yêu chung thuỷ giữa Mị Châu và Trọng Thuỷ ; song cũng có thể xem đây là sự lí giải của tác giả dân gian về một nỗi oan tình. Qua các sự kiện, nhân vật, chi tiết, hình ảnh giàu ý nghĩa biểu trưng đó, truyện thể hiện bi kịch nước mất nhà tan và ý thức lịch sử sâu sắc của nhân dân.
III – LIÊN HỆ ( Xem tại đây )