Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc – Phần 1

Soạn bài online – Việt Bắc của Tố Hữu

Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc​ – Phần 1

   Tố Hữu là nhà thơ lớn của dân tộc, đỉnh cao của thơ ca cách mạng Việt Nam. Một trong những yếu tố làm nên sức sống lâu bền trong thơ Tố Hữu chính là tính dân tộc.

GS Nguyễn Đăng Mạnh nhận định: “Sức hấp dẫn mạnh nhất của thơ Tố Hữu đối với công chúng đông đảo là tính dân tộc, tính truyền thống đậm đà và nhuẫn nhuyễn.” Ông đã kế tục truyền thống thơ ca dân tộc, đặc biệt là thơ ca dân gian và thơ cổ điển, thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc cả trong nội dung và nghệ thuật thể hiện. Với việc tìm hiểu tính dân tộc trong thơ Tố Hữu chúng ta sẽ thấy được nỗi lòng của con người Việt Nam, thấy được bản sắc, hơi thở, tinh thần của dân tộc Việt Nam. Để hiểu rõ hơn về tính dân tộc trong thơ Tố Hữu chúng ta nên tìm hiểu bài thơ tiêu biểu của ông: Việt Bắc. Bài thơ là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca mà cội nguồn sâu xa của nó là tình cảm quê hương đất nước, là truyền thống ân nghĩa, đạo lý thuỷ chung của dân tộc. 
 

 

 
                   Giải thích khái niệm: tính dân tộc…?
 
Tính dân tộc thể hiện ở mọi yếu tố từ nội dung đến hình thức của sáng tác văn học. Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu trước hết được xem xét toàn diện từ sự mô tả cuộc sống và đấu tranh độc đáo của dân tộc ta, sự phác họa con người Việt Nam với truyền thống đạo đức, đặc điểm tâm lý và tái hiện phong cảnh đất nước. Bằng ngôn ngữ nghệ thuật, thể thơ và nhạc điệu mang đậm màu sắc dân tộc. Tố Hữu là nhà thơ dân tộc trong cái ý nghĩa đầy đủ và tự hào của khái niệm này. Về nội dung, dễ dàng nhận thấy trước hết là tính dân tộc biểu hiện trong sự phản ánh màu sắc dân tộc của thiên nhiên, của đời sống vật chất và tinh thần của xã hội. Nội dung căn bản của tính dân tộc là ở tinh thần dân tộc, tính cách dân tộc và cái nhìn dân tộc đối với cuộc đời. Về hình thức, tính dân tộc biểu hiện ở chỗ: mỗi nền văn học dân tộc có hệ thống thể loại truyền thống, có các phương tiện miêu tả, biểu hiện riêng, nhất là có ngôn ngữ dân tộc thể hiện bản sắc riêng trong tư duy và tâm hồn của dân tộc mình. 
 
I. TÍNH DÂN TỘC TRÊN PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG TRONG BÀI THƠ VIỆT BẮC.
1. Con người trong cuộc kháng chiến của dân tộc: 
   1.1. Hình ảnh lãnh tụ – Bác Hồ
 
Có thể nói, trong các nhà thơ Việt Nam hiện đại, Tố Hữu là người có nhiều tác phẩm sâu sắc và cảm động về Bác Hồ: Hồ Chí Minh, Sáng Tháng Năm, Cánh chim không mỏi, Theo Chân Bác, Ta đi tới, Việt Bắcnhững tác phẩm ấy không phải chỉ là cảm xúc riêng của nhà thơ mà còn là tấm lòng của những người con Việt Nam hướng về vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, mà qua những bài thơ đó, Tố Hữu đã thể hiện tập trung những suy nghĩ, cảm xúc của mình về hình tượng Hồ Chí Minh với tất cả lí tưởng, lẽ sống, niềm vui và những ân tình cách mạng. Có lẽ chưa bao giờ trong văn học Việt Nam hình ảnh vị lãnh tụ, vị cha già kính yêu của dân tộc hiện lên như một chủ đề sáng tác chính trong thơ văn Việt Nam rõ ràng mà sâu sắc đến vậy. 
 
Hình ảnh Bác Hồ trong bài thơ Việt Bắc là kết tinh của những tinh hoa dân tộc. Bác hiện lên thật bình dị, gần gũi và thiết tha. Tố Hữu gọi Bác Hồ là Bác, là Người và đặc biệt gọi là ông Cụ. Tiếng gọi nghe tha thiết, chất chứa bao ân tình mà gần gũi xiết bao. Không những thế Bác còn là niềm tin, là ánh sáng nâng bước và sưởi ấm lòng mỗi người trong những hoàn cảnh đen tối nhất: 
 
Ở đâu u ám quân thù 
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
 
Đây là hình ảnh trở thành điểm quy tụ mọi suy nghĩ và tình cảm. Nó chứng tỏ những tình cảm thiết tha của nhà thơ đối với Bác, đồng thời ở một mức độ nhất định cũng nói lên quan niệm của nhà thơ về vai trò của Người đối với cách mạng của Đảng ta, nhân dân ta. 
 
  1.2. Hình ảnh áo chàm:
 
Áo chàm đưa buổi phân li 
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
 
Áo chàm là hình ảnh hoán dụ chỉ những người dân Việt Bắc nghĩa tình nhưng cũng rất đỗi anh hùng. Việt Bắc đã ca ngợi một tình cảm rất đẹp của người Việt Nam. Mười lăm năm trước họ là những người hoàn toàn xa lạ với nhau. Cuộc chiến tranh đã đẩy họ về gặp nhau tại chiến khu Việt Bắc này. Mười lăm năm một quãng thời gian không phải là ngắn, biết bao kỉ niệm biết bao những cay đắng ngọt bùi đã trải qua giờ đây đến giây phút chia tay, ai cũng bịn rịn, ai cũng nghẹn ngào. Tố Hữu đã một lần nữa cho chúng ta thấy được tính cách dân tộc của người Việt Nam “trọng nghĩa, trọng tình”. Dân tộc ta rất giàu tình cảm. Tình cảm đã làm cho con người qua cay đắng vẫn ngọt ngào, “Lòng nóng bỏng căm thù vẫn mát tươi tình bạn”. Tố Hữu ca ngợi tình cảm thuỷ chung, đặc điểm này có cội rễ sâu xa trong truyền thống dân tộc, lại được bồi bổ phát huy thêm trong đấu tranh cách mạng. Người dân Việt Nam mang nặng tình nghĩa đối với Đảng đã hồi sinh đất nước, đem lại cuộc đời mới cho riêng mỗi người. Chính vì “ngọt bùi nhớ lúc đắng cay” mà “lòng ta ơn Đảng đời đời”: 
 
Người Việt Nam yêu quý đất nước mình, tự hào về dân tộc mình. Nghĩa tình thuỷ chung là đặc tính của dân tộc ta từ nghìn xưa đến nay. Trong đấu tranh gian khổ, tình cảm ấy lại càng ngời sáng. Những con người hầu hết đã lớn lên cùng cách mạng, luôn gắn bó với quê hương đất nước. Tác giả đã cố gắng bắt lấy những hình ảnh, âm thanh của đời sống rất đời thường nhưng cũng xiết bao gợi cảm ở chốn rừng núi xa xôi: 
 
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều 
Chày đêm nện cối đều đều suối xa. 
 
Bài thơ được viết khi trung ương Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội, từ góc độ cuộc kháng chiến thành công mà nhìn lại căn cứ địa Việt Bắc, chiếc nôi của Cách mạng đầu não của cuộc kháng chiến. Bài thơ là cuộc đối thoại giữa mình với ta, ta với mình nhưng tình điệu, hơi thơ có khi cả lời thơ quấn quýt hòa quyện. Mở đầu bài thơ là câu hỏi: 
 
Mình về mình có nhớ ta 
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng. 
Mình về mình có nhớ không 
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn? 
Mười lăm năm ấy bao nhiêu sự kiện lịch sử trọng đại của đã diễn ra, xuất phát từ cái nôi cách mạng. 
Việt Bắc hiện lên với những con người thật đẹp biết bao. Tác giả đã dùng hai hình ảnh đối lập để nói về tấm lòng của họ: 
Mình đi, có nhớ những nhà 
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
 
“Hắt hiu lau xám” những ngôi nhà còn nghèo, còn nhiều vất vả nhưng tấm lòng của họ thì son sắt thủy chung vạn lần. Đó là hình ảnh của “người mẹ nắng cháy lưng” vẫn đang ngày đêm góp công sức của mình cho cuộc kháng chiến. Đó là hình ảnh của những con người Việt Bắc trong cuộc sống đời thường hài hòa với hình ảnh thiên nhiên: 
 
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi 
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. 
Ngày xuân mơ nở trắng rừng 
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang 
Ve kêu rừng phách đổ vàng 
Nhớ cô em gái hái măng một mình 
Rừng thu trăng rọi hòa bình 
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung. 
 
Đoạn thơ hiện lên “dáng điệu cần mẫn, cẩn trọng và tài hoa” trong “công việc thầm lặng” của người Việt Bắc và dưới ánh sáng của rừng mơ mùa xuân, hình ảnh cô gái Việt Bắc hiện lên thật thanh mảnh, dịu dàng. Cô sơn nữ một mình trong núi rừng không gợi ấn tượng buồn hiu hắt mà lại mang vẻ đẹp khoẻ khoắn vì cô hiện lên trong tư thế lao động vất vả, giản dị nhưng cũng rất thơ mộng. 
 
   1.3. Hình ảnh chiến sĩ cách mạng :
 
Những người chiến sĩ cách mạng đến với núi rừng Việt Bắc trong giờ phút chia ly cũng đầy tâm trạng: 
 
Tiếng ai tha thiết bên cồn 
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi 
Áo chàm đưa buổi phân li 
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay 
 
Mười lăm năm gắn bó chắc chắn sẽ có nhiều điều muốn nói nhưng giờ phút chia tay này họ chẳng biết nói gì với nhau. “cầm tay” cái cầm tay chứa chan bao tình cảm, như muốn truyền hơi ấm cho nhau. Không nói gì nhưng đã nói vạn lời. Tấm lòng của họ luôn thủy chung, son sắt: 
 
– Ta với mình, mình với ta 
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh 
Mình đi, mình lại nhớ mình 
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
 
Rời xa Việt Bắc họ ôm bao nhiêu nỗi nhớ: “từng bản khói cùng sương”, “rừng nứa bờ tre”, “ngày tháng cơ quan”, “lớp học i tờ”…Dẫu cuộc chiến gian khổ nhiều vất vả “Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng” nhưng tâm hồn những người 
chiến sĩ cách mạng vẫn: 
 
Nhớ sao ngày tháng cơ quan 
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
 
Lạc quan, yêu đời là bản chất tính cách của con người Việt Nam. Đó chính là nguồn sức mạnh lớn lao giúp con người Việt Nam vượt qua bao khó khăn chông gai của cuộc đời. Ân tình là vậy, thủy chung là vậy, hiền lành là vậy nhưng khi vào trận chiến, đối mặt với kẻ thù họ mạnh mẽ vô cùng: 
 
Những đường Việt Bắc của ta 
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung 
Quân đi điệp điệp trùng trùng 
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
 
Những nhịp điệu đêm đêm, những điệp thanh rầm rập cùng với hình thức so sánh đã gợi tả thật hay, thật hào hùng âm vang cuộc kháng chiến thần thánh. Khí thế chiến đấu thần kì của quân và dân ta làm rung chuyển đất trời, không một thế lực nào có thể ngăn cản được.Cả một dân tộc ào ào ra trận. Và còn có sự góp sức không nhỏ của hàng chục vạn anh chị dân công:
 
Dân công đỏ đuốc từng đoàn 
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
 
Họ là những người đã khuân, đã vác, đã thồ hàng trăm cây số từ mấy mươi tỉnh khác nhau ở miền xuôi, miền ngược, miền Bắc, miền Trung đi hàng trăm ngày đường, qua hàng trăm đêm trắng dưới mưa bão của đất trời và bom đạn đem được lương thực đến tận tay các chiến sĩ. Chiến dịch Điện Biên Phủ là cả một kì công về giao thông tiếp vận mà kẻ thù không sao có thể tưởng tượng nổi. Nó hiểu làm sao nổi, ước lường làm sao hết cái giá mồ hôi của một bát gạo, một viên đạn mà nhân dân ta đã cung ứng cho chiến trường Tây Bắc. 
 
Như vậy có thể nhận thấy, bài thơ Việt Bắc đã khắc họa hình ảnh con người 
Việt Nam, những con người mang những nét đặc trưng tiêu biểu cho dân tộc Việt 
Nam: thủy chung, ân tình, luôn luôn lạc quan yêu đời vượt qua mọi gian khổ và 
cũng rất anh hùng, dũng mãnh trong chiến đấu. 
 
2. Phong cảnh thiên nhiên đất nước mang bản sắc Việt Nam:
 
Thiên nhiên không chỉ có vẻ đẹp tự tại, không chỉ hé mở cho những tâm hồn riêng lẻ mà gắn liền với quê hương đất nước với đời sống lao động và chiến đấu, với sinh hoạt với những vui buồn của mỗi người Việt Nam. Bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc được xem là một trong những bức họa đẹp nhất của núi rừng con người Việt Bắc: 
 
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi 
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. 
Ngày xuân mơ nở trắng rừng 
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang 
Ve kêu rừng phách đổ vàng 
Nhớ cô em gái hái măng một mình 
Rừng thu trăng rọi hòa bình 
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung. 
 
Thiên nhiên và con người hòa quyện vào nhau. Thiên nhiên làm nền cho vẻ đẹp của con người xuất hiện. Thiên nhiên có con người thiên nhiên càng thêm hữu tình. Một bông hoa chuối rực đỏ như một ngọn lửa, cháy bùng lên giữa rừng xanh bạt ngàn xua tan đi cái lạnh lẽo giữa mùa đông giá rét. Con người bước đi hiên ngang “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Những đóa hoa mơ dệt núi rừng thành tấm thảm màu trắng tinh khôi. Con người miệt mài với công việc đan nón của mình. Mùa hạ đến, rừng phách như đổ cả hũ mực xuống bức tranh vàng rực rỡ tràn đầy sức sống, sáng bừng cả thiên nhiên và con người. Đẹp nhất có lẽ là hình ảnh ánh trăng. Bởi đó là ánh trăng của hòa bình của yên vui và hạnh phúc. Ánh trăng hòa quyện trong tiếng hát của con người. 
 
Việt Bắc không chỉ là hình ảnh của riêng Tây Bắc. Tố Hữu nhắc đến rất nhiều địa danh, có những cái tên đã đi vào lịch sử, cắm nên những cột mốc lớn nhỏ của cuộc kháng chiến, những tên đã làm nên nội dung, linh hồn của quê hương đất nước: 
 
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa? … 
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy… 
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng 
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng 
Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà 
Niềm vui chiến thắng đến với Việt Bắc từ muôn nơi: 
Tin vui chiến thắng trăm miềm 
Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về 
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê 
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
 
Miền đất nào cũng muốn góp phần mình vào cuộc kháng chiến, xây dựng đất nước giàu đẹp hơn, hùng mạnh hơn. Nhưng thiên nhiên Việt Bắc không chỉ đẹp, nó cũng khắc nghiệt: Mình đi, có nhớ những ngày mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù.
 
Bạn muốn xem tiếp ?