Chứng minh “Tuyên ngôn độc lập” là áng văn chính luận mẫu mực.

Chứng minh “Tuyên ngôn độc lập” là áng văn chính luận mẫu mực.

    Tuyên ngôn độc lập (1945) của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời trong hoàn cảnh lịch sử đất nước nguy vong: chính quyền cách mạng còn non trẻ hải đương đầu với bao khó khăn chồng chất.

Bản tuyên ngôn phải đòng thời làm hai nhiệm vụ: vừa khẳng định nền độc lập của dân tộc, vừa phủ định lí lẽ bịp bợm của bọn thực dân cướp nước trước dư luận thế giới. Hiểu như thế mới thấy được vì sao HCM lại dùng những lí lẽ đanh thép, những lập luận chặt chẽ, những bằng chứng không thể chối cãi được để viết nên áng văn chính luận mẫu mực. Không chỉ vậy, văn kiện lập quốc này còn là tấm lòng yêu nước nồng nàn, niềm tự hào dân tộc mãnh liệt, sự khao khát độc lập tự do và ý chí quyết tâm bảo vệ tự do, độc lập của nhân dân Việt Nam ở HCM.
 
     Khi HCM đọc bản tuyên ngôn thì ở phía Nam, thực dân Pháp núp sau lưng quân đọi Anh đang tiến quân vào Đông Dương; còn ở phía Bắc 20 vạn quân Tưởng tay sai của đế quốc Mĩ đã chực sẵn ở biên giới. Vậy đối tượng của bản tuyên ngôn không chỉ là đồng bào cả nước, là nhân dân thế giới nói chung; mà trước hết là bọn thực dân, đế quốc đang âm mưu tái chiếm nước ta.
 
     Bản tuyên ngôn đã giải quyết vấn đề bức thiết ấy với nhũng lập luận chặt chẽ và đanh thép ngay từ phần mở đầu. HCM mở đầu bản tuyên ngôn bằng cách trích dẫn lời hai bản tuyên ngôn bất hủ của Mĩ và Pháp:  “Tất cả mọi người đều sinh ra tự do và bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” ( Tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ); “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” (Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp). Bởi lẽ bấy giờ, tư tưởng tiến bộ của những nước lớn, nước tư bản đang có ảnh hưởng mạnh mẽ trên thế giới. Việc trích dẫn tuyên ngôn của hai nước lớn Pháp và Mĩ sẽ dễ tạo được thông suốt, sự công nhận tức thời, được nhiều nước thừa nhận. Nếu thế giới đã công nhận quyền độc lập, tự do, dân chủ , bình đẳng của Mĩ, của Pháp thì sẽ phải công nhận quyền độc lập tự do của Việt Nam. Bản tuyên ngôn của Việt Nam đã có một cơ sở pháp lí chính nghĩa rất vững vàng.
 
    Cách trích dẫn ấy còn là chiến thuật sắc bén của HCM_ khéo léo và kiên quyết. Khéo léo, vì  HCM tỏ ra trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp , người Mĩ. Kiên quyết vì HCM đã nhắc nhở họ đừng phản bội tổ tiên mình, đừng làm vấy bẩn lên ngọn cờ nhân đạo và chính nghĩa của ngững cuộc cách mạng vĩ đại.  Ngoài ra mở đầu như thế còn có ý nghĩa gợi lên niềm tự hào dân tộc to lớn. Bản tuyên ngôn nước ta đặt ngang hàng với hai bản tuyên ngôn của hai nước lớn: Pháp và Mĩ, tức là đặt ngang hàng ba cuộc cách mạng, ba nền độc lập, ba quốc gia. Thật đáng tự hào , vì cuộc cách mạng tháng Tám 1945 đã giải quyết nhiệm vụ của cả cách mạng Mĩ(1776) và cách mạng Pháp(1791). Bản tuyên ngôn đã nêu rõ : “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập “, đó là nhiệm vụ của cách mạng Mĩ: đấu tranh giải phóng dân tộc; và “Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế đọ Dân chủ Cộng hòa”, đó là tinh thần cơ bản của cuộc cách mạng nhân quyền, dân quyền của Pháp.  
 
      Hồ Chí Minh chặn đứng ngay âm mưu xâm lược của kẻ thù một cách thấu tình đạt lí trong ý kiến suy rộng ra: “ Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là : tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”. Cách  suy rộng ra ấy vừa dễ hiểu lại vừa có nghĩa lớn lao đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới. Ta có thể xem câu suy rộng ra ấy của HCM như phát súng lệnh mở đầu cho bão táp cách mạng ở các nước thuộc địa, sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân vào nửa sau thế kỉ XX. HCM đã kết lại phần mở đầu với một câu nói chắc nịch, thể hiện rõ quan điểm của Người : Đó là những lẽ phải không ai có thể chối cãi được”. Vậy có nghĩa là, quyền độc lập của dân tộc Việt Nam đã
có một căn cứ sâu xa, một hậu thuẫn vô cùng vững chắc. Cũng có nghĩa là thực dân Pháp không được đi ngược lại với “những lẽ phải” của tổ tiên họ.
 
      Bọn thực dân để chuẩn bị cho cuộc tái chiếm nước ta, chúng đã tung ra trước dư luận thế giới những lí lẽ bịp bợm : Đông Dương vốn là thuộc địa của Pháp, Pháp có công khai hóa đất nước này, nay trở lại là lẽ đương nhiên, khi phát xít Nhật đã bị Đồng Minh đánh bại. Thực dân pháp kể công khai hóa Đông Dương thì bản tuyên ngôn đã bóc trần bản chất cướp nước của chúng bằng một hệ thống dẫn chứng xác đáng, thuyết phục và những lí lẽ đanh thép, hùng hồn. Từ chuyển ý “thế mà” như một điểm tựa, một đòn bẩy bất ngờ hất tung bộ mặt xảo trá của bọn thực dân Pháp, phơi bày chân tướng giấu sau chiêu bài văn minh, khai hóa, bảo hộ thực chất là xâm lược, là cướp nước. Bằng một câu văn chắc gọn: “Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa” , HCM đã kết tội bọn thực dân nói điều nhân nghĩa làm điều phi nghĩa. Để đập tan luận điệu xảo trá này của thực dân, HCM đã đưa ra những dẫn chứng chọn lọc cụ thể, xác đáng, toàn diện vạch ra tội ác dã man, tàn bạo của thực dân pháp chủ yếu trên hai lĩnh vực chính trị và kinh tế.

14 câu văn dẫn ra hàng loạt tội ác điển hình của thực dân Pháp trong gần một thế kỉ đô hộ nước ta, mà chúng cho là văn minh, khai hóa. Những hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa. Tự do dân chủ là quyền cơ bản của con người nhưng từ khi Thực dân Pháp bước chân vào Việt Nam đã “tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”. Chúng đã biến Việt Nam thành thuộc địa, người dân thành nô lệ. Và còn hàng loạt những chính sách bóc lột vô cùng tàn nhẫn khác được HCM nêu ra: “ Chúng thi hành những luật pháp dã man./ Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học./ Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu. Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều”. Cuối cùng chúng gây ra nạn đói khiến “từ Quảng Trị đến Bắc Kì hơn gai triệu đồng bào ta bị chết đói”. Với những dẫn chứng xác thực, không thể chối cãi được và cách lập luận chặt chẽ, đanh thép, HCM đã kết tội cướp nước của bọn thực dân Pháp một cách hùng hồn. HCM lại đập tan mọi luận điệu xảo trá, bịp bợm mà bọn chúng đã tung ra trước dư luận thế giới.

        Nếu thực dân Pháp kể công “bảo hộ” thì bản tuyên ngôn đã lên án : Thế là chẳng những chúng không bảo hộ được ta, trái lại, trong 5 năm chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật”. Những dẫn chứng mà HCM đưa ra đều là những sự kiện, bằng chứng lịch sử. Mùa thu năm 1940, Nhật xâm lược Đông Dương thì pháp đã “quì gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật”. Cách dùng từ ngữ đầy mỉa mai của HCM đã vạch trần bản chất bạc nhược, đê hèn của bọn thực dân Pháp. Chính sự thỏa hiệp đó của chúng đã khiến nhân dân ta phải chịu hai tầng xiềng xích : Pháp và Nhật. Ngày 9/3/1945 khi Nhật đảo chính, “bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng” để nước ta rơi vào tay Nhật. Đoạn văn thể hiện sự khôn khéo và tài hùng biện chặt chẽ, vững vàng của HCM trước một bài toán khó liên quan đến vận mệnh của cả dân tộc Việt Nam khi đó. Thực dân Pháp là kẻ thù của ta. Nhưng ta và Pháp lại cùng thuộc Đồng minh, cùng một hàng ngũ. Vậy vừa là kẻ thù, vừa là bạn. HCM đã khéo léo loại bỏ bọn thực dân Pháp ở Đông Dương ra khỏi hàng ngũ Đồng Minh. Thứ nhất, chúng đã bán Việt Nam cho phát xít Nhật để mở thêm căn cứ đánh Đồng Minh. Thứ hai, chúng cự tuyệt liên minh để chống phát xít. Thứ ba, chúng khủng bố những người Đồng Minh chống phát xít. Với những bằng chứng lịch sử rõ ràng, sáng tỏ HCM đã kết tội bọn thực dân Pháp ở Đông Dương phản bội Đồng Minh, không thực hiện nghĩa vụ chống phát xít. 
 
         HCM còn khẳng định thực dân Pháp không có quyền quay trở lại Việt Nam bởi Việt Nam đã không còn là thuộc địa của Pháp nữa: Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa”. Vì Pháp đã bán Việt Nam cho Nhật, Việt Nam không còn là thuộc địa của Pháp. Và “Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”. Điệp từ “sự thật là” lặp lại như một điệp khúc, làm tăng âm hưởng hùng hồn, đanh thép, chắc chắn cho bản tuyên ngôn. Vì sức mạnh của chính nghĩa bao giờ cũng là sức mạnh của sự thật. Đó là một thành công trong nghệ thuật lập luận chặt chẽ, thuyết phục người đọc của HCM. Thực dân Pháp không có công khai hóa, bảo hộ Việt Nam, Việt Nam không còn là thuộc địa của Pháp, Pháp không thể vin cớ gì để quay trở lại Việt Nam. Đây là một lập luận hết sức chặt chẽ, kín kẽ; một lí lẽ đanh thép, đầy sức thuyết phục của HCM. Qua đó, ta càng công nhận Tuyên ngôn độc lập là một áng văn chính luận sắc sảo, hùng hồn.
 
      Tuy nhiên để làm nên một áng văn chính luận mẫu mực thì chỉ có lập luận và dẫn chứng thôi là chưa đủ. Trong bản tuyên ngôn, để vạch trần tội ác dã man, tàn bạo của bọn thực dân , HCM còn sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh kết hợp với giọng điệu câu văn thay đổi để thể hiện những cung bậc cảm xúc khác nhau. Điều đó góp phần tạo sức thuyết phục cho người đọc thông qua những cảm xúc giản dị nhất, chân thật nhất của Người. Điều ấy làm cho lời kết tội thêm xúc động thấm thía, nghẹn ngào : “Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”, “Chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy”,… Dường như cảm xúc tới đây đã nghẹn lại trong câu văn ngắn, một đoạn văn ngắn. HCM còn sử dụng những từ đồng nghĩa đi sóng đôi với nhau để khắc sâu hình ảnh đất nước ta sau hơn 80 năm bị thực dân Pháp dày xéo :“Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều”. Việc sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh cảm xúc cùng cấu trúc ngữ pháp điệp liên tiếp trong 14 câu văn đã góp phần cho lời kể tội ác thực dân của HCM càng hùng hồn, đanh thép hơn nữa. Những chính sách ấy thực chất đã vi phạm quyền con người. Tuyên ngôn độc lập còn là áng văn chính luận xúc động lòng người được bộc lộ từ tấm lòng yêu nước nồng nàn ở HCM.  Tấm lòng ấy đã truyền vào từng lời văn khi tha thiết tự hào, khi hùng hồn đanh thép gây xúc động mạnh mẽ đối với người đọc. Trong đoạn văn kể tội bọn thực dân Pháp giọng văn của HCM chia ra làm hai gam giọng rõ ràng trong từng vế câu văn. Vế câu kể tội ác của giặc thì giọng văn sôi trào, đanh thép, phẫn nộ căm thù, vế câu nêu hậu quả của người dân Việt Nam phải gánh chịu thì nghẹn ngào, trầm lắng, xót xa, u uất. Những đoạn văn dài ngắn xô đẩy xen kẽ nhau như nhịp cảm xúc lên xuống thổn thức theo đau thương và dồn nén căm hờn, khi lại sôi trò đanh thép. Đoạn văn gợi ta nhớ đến bản chép tội giặc Minh của Nguyễn Trãi xưa : “Độc ác thay trúc Lam Sơn không ghi hết tội/ Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa hết mùi”. Ta cũng có thể nói như thế với thực dân Pháp. Vì đây không phải lần đầu tiên HCM kết tội thực dân Pháp. Có lẽ đây chỉ là những dòng văn cuối cùng của một “Bản án chế đọ thực dân Pháp” mà HCM đã lập hồ sơ từ những năm 20. HCM không luận tội mà kết tội trực tiếp, tuyên án thực dân Pháp trước dư luận thế giới. Có cảm giác HCM như một vị quan tòa đang cất cao lời buộc tội chủ nghĩa thực dân, còn bọn thực dân Pháp hiện ra như bị cáo bị vạch tội trước công luận thế giới.
 
        Từ những lí lẽ trên, HCM trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. Quyền tự do, độc lập ấy phù hợp với “lẽ phải không ai chối cãi được”, là kết quả đấu tranh xương máu, bền bỉ của biết bao con người suốt gần 100 năm. HCM đã khẳng định: “sự thật đã thành nước tự do, độc lập”. Nghĩa là, nền độc lập không phải cái ta cần phải có, mà nó đã là sự thật, ta đã có, đã giành được. Từ nay nước Việt Nam độc lập tự do đã được cả thế giới công nhận. Song do chính quyền cách mạng còn rất non trẻ đã phải đương đầu với bao khó khăn chồng chất, vì thế HCM không thể nói như Nguyễn trãi xưa:
                                    “Xã tắc từ đây vững bền
                                     Giang sơntừ đây đổi mới”.
Bởi, kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất đe dọa nền độc lập của dân tộc ta khi ấy là bọn thực dân Pháp còn đang
âm mưuntái chiếm nước ta. Đẩy lùi nguy cơ ấy sẽ phải là cuộc chiến đấu vũ trang lâu dài của toàn dân. Theo tư tưởng HCM cho rằng : “Độc lập tự do là quyền thiêng liêng nhất, là tài sản quý giá nhất mà mỗi dân tộc cần giành và giữ lấy”. Trong phần tuyên ngôn chính thức này, một lần nữa HCM lại sử dụng cách lập luận hết sức chặt chẽ, sắc sảo của thể loại văn chính luận.
 
           Bản tuyên ngôn chính thức khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nó nêu cao tinh thần, khát vọng tự do, hạnh phúc cảu dân tộc Việt Nam, đánh dấu trang sử vẻ vang nhất trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc. Tuyên ngôn độc lập còn là áng văn chính luận mẫu mực của nền văn học Việt Nam.