1. Hai câu mở đầu của bài thơ giúp người đọc hình dung ra hình ảnh của nhà thơ trong giờ phút gặp gỡ với tiếng lòng của Tiểu thanh:
“Tây hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”
Dịch thơ:
Tây hồ cảnh đẹp hoá gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn
a) Hai câu thơ dịch đã thoát ý nguyên tác nên làm giảm đi phần nào hàm ý súc tích của câu thơ chữ hán. Nguyễn Du không nhằm tả cảnh đẹp Hồ tây mà chỉ mượn sự thay đổi của không gian để nói nên một cảm nhận về biến đổi của cuộc sống. Cách diễn đạt vừa tả thực vừa gợi ý nghĩa tượng trưng. “Tây Hồ hoa uyển”(vườn hoa Tây Hồ) gợi lại cuộc sống lặng lẽ của nàng Tiểu Thanh ở vườn hoa cạnh tây Hồ -một cảnh đẹp nổi tiếng của Trung Hoa . Nhưng hàm ý tượng trưng được xác lập trong mối quan hệ giữa “Vườn hoa và gò hoang”. Dường như trong cảm quan Nguyễn Du, những biến thiên của trời đát đều khiến ônh phải xúc động. Đó là nỗi niềm “bãi bể hương dâu” mà chúng ta đã từng biết trong tác phẩm Truyện Kiều. Nhìn về hiện tại để nhớ về quá khứ , câu thơ trào dâng một nỗi đau xót ngậm ngùi cho vẻ đẹp chỉ còn trong dĩ vãng.
b) Trong không gian điêu tàn ấy, con người xuất hiện với dáng vẻ cô đơn, như thu mọi cảm xúc trong 2 từ “độc điếu”. Một mình nhà thơ ngậm ngùi đọc tập sách (nhất chỉ thư). Một mình đối diện với một tiếng lòng Tiểu Thanh 300 năm trước , câu thơ như thể hiện rõ cảm xúc trang trọng thành kính với di cảo của Tiểu Thanh. Đồng thời cũng thể hiện sự lắng sầu trầm tư trong giáng vẻ cô đơn . cách đọc ấy cũng thể hiện được sự đồng cảm của nhà thơ với Tiểu Thanh, “điếu là sự bày tỏ sự xót thương với người xưa. không phải là tiếng thổn thức như lời dịch, mà nước mắt thấm lặng lẽ vào trong hồn nhà thơ.
2.Hai câu thực đã làm sáng tỏ cho cảm giác buồn thương ngậm ngùi của hai câu đề:
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư
Dịch thơ:
Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương
a) Nhà thơ đã mượn hai hình ảnh ” son phấn” và ” văn chương để diễn tả cho những đau đớn dày vò về thể xác và tinh thần của Tiểu Thanh gửi gắm vào những dòng thơ . theo quan niệm xưa, “son phấn”- vật trang điểm của phụ nữ tinh anh có( thần) vì gắn với mục đích làm đẹp cho phụ nữ . Cả hai câu thơ nhằm nhắc lại bi kịch trong cuộc đời Tiểu Thanh-một cuộc đời chỉ biết làm bạn với son phấn và văn chương để nguôi ngoai bất hạnh.
b) Mượn vật để nói về người.Gắn với những vật vô tri vô giác là những từ ngữ chỉ cho tính cách số phận con người như “thần” và “mệnh”. Lối nhân cách hoá thể hiện rõ cảm xúc xót xa của nhà thơ về những bất hạnh của kiếp người qua số phận của Tiểu Thanh. Kết cục của Tiểu Thanh suất phát từ sự ghen tuông, lòng đố kị tài năng của người đời . Dù chỉ là những vật vô chi vô giác nhưng chúng cũng phải chịu số phận đáng thương như chủ nhân: son phấn bẽ bàng văn chương đốt dở. Hai câu thơ đã gợi lên sự tàn nhẫn của bọn người vô nhân trước những con người tài hoa. Đồng thời cũng thể hiện nhận thức của Nguyễn Du vốn rất nhạy cảm trước cuộc đời” hồng nhan bạc phận”, gắn với quan niệm :”tài mệnh tương đố”của Nho gia. Vật còn như thế huống chi người! Vượt lên trên những ảnh hưởng của thuyết thiên mệnh là cả tấm lòng giàu cảm thương của Nguyễn Du.
3. Hai câu luận:
Từ số phận của Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã khái quát thành cái nhìn về con người trong xã hội phong kiến:
Cổ kim hận sụ thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
Dịch thơ:
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái oán phong lưu khách tự mang
a) Nỗi oan của Tiểu Thanh không phải chỉ của riêng nàng mà còn là kết cục của tất cả những người có tài “cổ”chí”kim”. Nhà thơ gọi đó la” hận sự”, một mối hận sự suốt đời nhắm mắt chưa yên. Trong suy nghĩ ấy, có lẽ Nguyễn Du còn liên tưởng đến bao cuộc đời khuất Nguyễn, Đỗ phủ- những người có tài mà ông hăng ngưỡng mộ – và vao người tài hoa bạc mệnh khác nữa. Những oan khuất của nghìn đời “khó hỏi trời’ (thiên nan vấn). Câu thơ đã giúp ta hình dung rõ cuộc sống của những nạn nhân xã hội phong kiến , dồn nén dồn nén thái độ uất ức của nhà thơ với thời cuộc, đồng thời cũng thể hiện một sự bế tắc của Nguyễn Du.
b) Khóc người để thương mình, cảm xúc đồng điệu đã làm thành một câu thơ bất hủ “phong vận kỳ oan ngã tự cư” (Ta tự cho mình cũng ở trong số những kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vi nết phong nhã). ở đó là tình cảm chân thành đồng điệu của Nguyễn Du, cũng thể hiện tầm vóc lớn lao của chủ nghĩa nhân đạo rất đẹp và rất sâu của ông.
c) Không phải chỉ một lần nhà thơ nói lên điều này. Ông đã từng hoá thân vào nhân vật nàng Kiều để khóc thay nhân vật, ông đã khẳng định một cách đầy ý thức ” thuở nhỏ , ta tự cho mình là người có tài”. cách trông người mà ngẫm đến ta ấy, trong thi văn cổ điển Việt Nam trước ông có lẽ hiếm ai thể hiện sâu sắc như vậy. Tự đặt mình là “đồng hội đồng thuyền” với Tiểu Thanh ,Nguyễn Du đã phơi bày lòng mình cùng cùng nhân thế. Tâm sự chung của những người mắc “kỳ oan” đã được bộc bạch trực tiếp mạnh mẽ trong tiếng nói riêng tư khiến người đọc cũng không khỏi ngậm ngùi. Tâm sự không chỉ của riêng Nguyễn Du mà còn là nỗi niềm của các nhà thơ thời bấy giờ.
4. Hai câu thơ kết :
Khép lại bài thơ là những suy tư của Nguyễn Du về thời thế :
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
Dịch thơ:
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng
Khóc cho nàng Tiểu Thanh ba trăm năm trước bằng giọt lệ chân thành của trái tim đồng điệu, dòng suy tưởng đã đưa nhà thơ đến ba trăm năm sau cung một mối hồ nghi khó hoà giải . Tiểu Thanh còn có tấm lòng tri kỷ của Nguyễn Du đến để rửa những oan khiên bằng giọt nước mắt đồng cảm. Còn nhà thơ tự cảm thấy cô độc lẻ loi trong hiện tại . Câu hỏi người đời sau ẩn chứa một khát khao tìm gặp tấm lòng tri âm tri kỷ giữa cuộc đời.