SOẠN BÀI: SAU PHÚT CHIA LI
(Trích Chinh phụ ngâm khúc)
Đặng Trần Côn
I. VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
1. Tác giả
Chinh phụ ngâm khúc nguyên văn chữ Hán của Đặng Trần Côn. Nhưng tác phẩm đã được diễn Nôm theo thể song thất lục bát, khá phổ biến trong giai đoạn từ giữa thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XIX với các tác giả như Đoàn Thị Điểm, Phan Huy ích, Nguyễn Gia Thiều, Cao Bá Nhạ,…
2. Thể thơ
Thể song thất lục bát được cấu tạo như sau:
– Một cặp thơ 7 chữ (song thất) đi kèm một cặp lục bát. Số câu trong bài không hạn chế.
– Nhịp trong hai câu thất là nhịp 3/4 (khác với nhịp trong thơ thất ngôn Đường luật là nhịp 4/3).
– Vần nhịp trong câu lục bát của thể thơ này cũng giống như vần nhịp trong thể lục bát của ca dao (vần chân hoặc vần lưng, nhịp 2/2/2… hoặc 4/4).
– Chữ thứ 7 của câu thất trên hiệp vần với chữ thứ 5 của câu thất dưới.
– Chữ thứ 7 của câu thất dưới lại hiệp vần với chữ thứ 6 của câu lục.
– Chữ thứ 8 của câu bát lại hiệp vần với chữ thứ 5 của câu thất tiếp theo
3. Đoạn trích
Đoạn trích gồm 12 dòng thơ (từ câu 53 đến câu 64) trong tác phẩm, nói về tâm trạng cách xa vời vợi của người vợ ngay sau phút chia li: Chàng thì đi cõi xa mưa gió – Thiếp thì về buông cũ chiếu chăn.
II. Kiến thức cơ bản
1. Nhận dạng thể thơ trong đoạn trích về số câu, số chữ và về cách hiệp vần trong mỗi khổ thơ?
Gợi ý: Kiểm tra số câu, số chữ trong các câu thơ. Riêng về cách hiệp vần, đoạn trích có ba khổ thơ, nhưng chỉ có khổ thơ sau là hiệp vần đúng theo chuẩn của thể thơ này (kiểm tra cách hiệp vần của các từ in đậm dưới đây):
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
Các khổ thơ còn lại, ít nhiều đều có sự sai lệch một hoặc một vài vị trí hiệp vần theo quy định.
2. Trong khổ thơ đầu, tác giả đã không chỉ dùng phép đối (chàng – thiếp, đi – về), mà còn kết hợp với phép lặp quan hệ từ (thì) ở mỗi câu để so sánh và nhấn mạnh đến tuyệt đối hoá tính chất của sự chia biệt. Hơn nữa, các hình ảnh "Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh" như đẩy không gian rộng ra vô tận: người vừa chia cách đã như biệt vô âm tín.
3. Trong khổ thơ thứ hai, tác giả tiếp tục sử dụng phép đối ngữ (chàng – thiếp, ngoảnh lại – trông sang), đảo địa danh (bến Tiêu Tương – cách Hàm Dương, cây Hàm Dương – cách Tiêu Tương), điệp từ,… để diễn tả nỗi sầu quay quắt của nhân vật trữ tình. Đoạn thơ nói lên một nghịch cảnh: cuộc sống cách xa nhưng tâm hồn thì không xa cách. Thế nhưng, muốn gần gũi mà không thể nào gần gũi được, muốn gắn bó mà phải chia li.
4. Nỗi sầu như thể nhân lên bất tận, trong khổ thơ thứ ba, điệp từ (cùng) được thể hiện ở dạng đồng hướng (chẳng thấy). Cái màu "mây biếc", "ngàn núi xanh" vừa mới ở trên thoắt bây giờ đã chỉ "thấy xanh xanh". Thấy mà không thấy, bởi vì cái màu sắc được điệp (và cũng là láy) ấy chỉ là "những mấy ngàn dâu". Thêm một lần nữa, không chỉ lặp từ, mà còn kết hợp lặp với đảo ngữ: "Ngàn dâu xanh ngắt một màu", câu thơ diễn tả điều "thấy" ấy là vô vọng, và cuối cùng, một câu hỏi tu từ, hỏi chính là trả lời về nỗi sầu tràn ngập cả "lòng chàng" và "ý thiếp".
5.* Các kiểu điệp ngữ đã được sử dụng trong các khổ thơ và tác dụng của chúng:
Gợi ý:
– Chú ý tìm các điệp ngữ:
+ Điệp ngữ “chàng” và “thiếp” (được kết hợp ngược chiều trong câu “chàng thì đi…thiếp thì về” hoặc được kết hợp chéo trong cụm từ “lòng chàng ý thiếp”).
+ Các điệp ngữ Tiêu Tương – Hàm Dương, cùng – cùng, ngàn dâu – ngàn dâu, xanh ngắt – xanh ngắt.
– Tập trung phân tích hai các tác dụng sau:
+ Tạo nhạc điệu trầm buồn cho thơ, phù hợp với nỗi sầu chia cách của người chinh phụ.
+ Góp phần diễn tả tính chất hai mặt của nỗi sầu chia li: gắn bó mà phải xa cách.
6. Bằng nghệ thuật sử dụng ngôn từ điêu luyện, đặc biệt là việc sử
dụng các biện pháp điệp ngữ rất tài tình, kết hợp với giọng điệu trầm buồn, tác
giả đã gửi và đoạn thơ cả một nỗi sầu da diết của người chinh phụ trong phút
chia li. Nỗi sầu ấy vừa có ý nghĩa tố cáo chiến tranh phi nghĩa vừa thể hiện
cái khát khao hạnh phúc của người phụ nữ xưa.
dụng các biện pháp điệp ngữ rất tài tình, kết hợp với giọng điệu trầm buồn, tác
giả đã gửi và đoạn thơ cả một nỗi sầu da diết của người chinh phụ trong phút
chia li. Nỗi sầu ấy vừa có ý nghĩa tố cáo chiến tranh phi nghĩa vừa thể hiện
cái khát khao hạnh phúc của người phụ nữ xưa.
III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
1. Cách đọc
Cần đọc đúng thể thơ song thất lục bát:
– Với cặp song thất, đọc theo nhịp 3/4 ;
– Với cặp lục bát, tuỳ theo nhịp của từng câu thơ mà chọn cách ngắt nhịp phù hợp: (Một số câu lục được viết theo thể 3/3: – Đoái trông theo / đã cách ngăn; – Bến Tiêu Tương / cách Hàm Dương; Có câu lục nên ngắt
theo nhịp 2/4: Ngàn dâu / xanh ngắt một màu. Các câu bát được viết theo nhiều nhịp khác nhau (Nhịp 4/4: Tuôn
màu mây bạc, trải ngàn núi xanh; Nhịp 3/5: Cây Hàm Dương / cách Tiêu Tương mấy trùng…).
theo nhịp 2/4: Ngàn dâu / xanh ngắt một màu. Các câu bát được viết theo nhiều nhịp khác nhau (Nhịp 4/4: Tuôn
màu mây bạc, trải ngàn núi xanh; Nhịp 3/5: Cây Hàm Dương / cách Tiêu Tương mấy trùng…).
2. Phân tích màu xanh trong đoạn thơ:
a) Các từ chỉ màu xanh được dùng khá nhiều trong đoạn trích: mây biếc, núi xanh, xanh xanh (ngàn dâu), xanh ngắt (ngàn dâu).
b) Sự kkác nhau của các từ chỉ màu xanh là ở chỗ nó chỉ những sự vật hiện tượng khác nhau, do đó nó có nội hàm ý nghĩa khác nhau. Đồng thời các từ cũng miêu tả màu xanh ở các mức độ khác nhau.
c) Tác dụng:
– Các từ: mây biếc, núi xanh gợi tả cái mênh mông, rộng lớn của không gian, tương ứng với nỗi sầu chia li không thể có lưòi nào nói hết được của người thiếu phụ.
– Hai từ còn lại miêu tả màu của ngàn dâu với mức độ tăng tiến (xanh xanh, xanh ngắt) vừa có ý nghĩa tượng trưng chỉ một linh cảm về sự cách xa vĩnh viễn (màu xanh của ngàn dâu trong thơ ca trung đại thường ngụ ý chỉ những đổi thay to lớn – có thể tìm hiểu thêm câu thành ngữ Thương hải biến vi tang điền (biển xanh biến thành nương dâu), hàm ý chỉ sự đổi thay to lớn), vừa gợi ra khoảng cách xa vời vợi và nỗi sầu ngày càng vừa lan toả, vừa thẳm sâu của người vợ khi chỗng đã cất bước ra đi.