Soạn bài Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga

I. Đọc – hiểu văn bản
1. Kết cấu của truyện Lục Vân Tiên theo kiểu truyền thống của loại truyện phương Đông, nghĩa là theo từng chương hồi, xoay quanh diễn biến cuộc đời của các nhân vật chính :

 
Chuyện nàng sau này còn lâu
Chuyện nàng xin nối thứ đầu chép ra…
[… ] Đoạn này đến thứ Nguyệt Nga…
 
Truyện được viết ra nhằm mục đích trực tiếp là truyền dạy đạo lí làm người.
 
Hỡi ai lẳng lặng mà nghe
Dữ răn việc trước lành dè thân sau.
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.
 
Đạo lí đó có thể thâu tóm ở mấy điểm sau:
 
– Xem trọng tình nghĩa giữa con người với con người trong xã hội: tình cha con, mẹ con, nghĩa vợ chồng, tình bè bạn, tình yêu thương cưu mang những người gặp cơn hoạn nạn.
 
– Đề cao tinh thần nghĩa hiệp, sẵn sàng cứu khốn phò nguy (Vân Tiên đánh cướp, Hớp Minh bẻ giò cậ công tử con quan).
 
– Thể hiện khát vọng của nhân dân hướng tới lẽ công bằng và những điều tốt đẹp trong cuộc đời (kết thúc có hậu của truyện: thiện thắng ác, chính nghĩa thắng gian tà).
 
Ở thời đại đó, chế độ phong kiến khủng hoảng nghiêm trọng, kỉ cương trật tự xã hội lỏng lẻo, đạo đức suy vi, một tác phẩm như thế đã đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, cho nên ngay từ lúc mới ra đời, Truyện Lục Vân Tiên đã được nhân dân Nam Bộ tiếp nhận nồng nhiệt.
 
Truyện Lục Vân Tiên cũng như các truyện truyền thống trong văn học Việt Nam thường có kết câu ước lệ, gần như đã thành khuôn mẫu. Người tốt thường gặp nhiều gian truân, trắc trở trên đường đời, bị kẻ xấu hãm hại, lừa lọc, nhưng họ vẫn được phù trợ, cưu mang (khi thì nhờ con người, khi thì nhờ thần linh), để rồi cuối cùng đều tai qua nạn khỏi, được đền trả xứng đáng, kẻ xấu bị trừng trị. Đối với loại văn chương nhằm tuyên truyền đạo đức, kiểu kết cấu đó vừa phản ánh chân thực cuộc đời vốn đầy rẫy những sự bất công, vô lí, vừa nói lên khát vọng ngàn đời của nhân dân ta: ở hiền thì gặp lành, cái thiện cũng bao giờ chiến thắng cái ác, chính nghĩa thắng gian tà.
 
2. Hành động nghĩa hiệp của Lục Vân Tiên trong đoạn trích gợi nhớ tới hoạt động của một nhân vật trong truyện cổ là chàng Thạch Sanh đánh đại bàng, cứu công chúa Quỳnh Nga.
 
– Lục Vân Tiên là một nhân vật lí tưởng của tác phẩm (thể hiện lí tưởng thẩm mĩ của tác giả về con người trong cuộc sống đương thời. Đây là một chàng trai vừa rời trường học vào đời (‘tuổi vừa hai tám” tức là 16 tuổi), lòng đầy hăm hở, muốn lập công danh (‘Danh tôi đặng rạng, tiếng thầy bay xa’), cũng mong thi thố tài năng cứu người, cứu đời. Gặp tình huống bất bằng này là thử thách đầu tiên, cũng là một cơ hội hành động. Điều này thể hiện ở hai tình huống hành động.
 
Hoạt động đánh cướp bộ lộ hết tính cách anh hùng, tài năng và tấm lòng vị nghĩa của Vân Tiên. Chàng chỉ có một mình, hay tay không trong khi bọn cướp đông người, gươm giáo đầy đủ, thanh thế lẫy lừng “người đều sợ nó có tài không dương”. Vậy mà Vân Tiên vẫn bẻ cây làm gậy xông vô đánh cướp. Hình ảnh Vân Tiên trong trận đánh được miêu tả thật đẹp – vẻ đẹp của người dung tướng cũng theo phong cách văn chương thời xưa, nghĩa là so sánh với những mẫu hình lí tưởng như dung tướng Triệu Tử Longngười Việt, đặc biệt là người Nam Bộ – vốn mê truyện Tam Quốc – Không mấy ai thán phục!
 
Hành động của Vân Tiên chứng tỏ cái đức của con người “vị nghĩa vong thân” (vì việc nghĩa quên thân mình), cái tài của bậc anh hùng và sức mạnh bênh vực kẻ yếu, chiến thắng những thế lực bạo tàn.
 
Thái độ cư xử của Vân Tiên sau khi đánh cướp lại bộc lộ tư cách con người chính trực, hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài, cũng rất từ tâm, nhân hậu. Thấy hai cô gái còn chưa hết hãi hùng, Vân Tiên “động lòng” tìm cách an ủi họ “Ta đã trừ dòng lâu la” và ân cần hỏi han. Khi nghe họ nói muốn được lạy tả ơn, Vân Tiên vội vàng gạt đi ngay “Khoan khoan ngồi đó chớ ra”. Ở dây có phần câu nệ của lễ giáo (nam nữ thụ thụ bất thân – đàn ông và đàn bà xưa trao và nhận cái gì của nhau không được dùng tay mà trao, ý nói không được gần gũi, đụng chạm vào nhau) nhưng chủ yếu là do đức tính khiêm nhường của Vân Tiên “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”. Chàng không muốn nhận cái lạy tả ơn của hai cô gái, từ chối lời mời về thăm nhà Nguyệt Ng, để cha nàng đền đáp và ở đoạn sau, từ chối nhận chiếc tram vàng của nàng, chỉ cùng nhau xướng họa một bài thơ rồi thanh thản ra đi, không hề vấn vương. Dường như đối với Vân Tiên, làm việc nghĩa là một bổn phận, một lẽ tự nhiên, con người trọng nghĩa khinh tài ấy không coi đó là công trạng. Đó là cách cư xử mang tinh thần nghĩa hiệp của các bậc anh hùng hảo hán.
 
Với những nét tính cách đó, hình ảnh Lục Vân Tiên là một hình ảnh đẹp, hình ảnh lí tưởng mà Nguyễn Đình Chiều gửi gắm niềm tin và ước vọng của mình.
 
3. Những nét đẹp tâm hồn của Kiều Nguyệt Nga
 
– Trước hết, đó là lời lẽ của một cô gái khuê các, thùy mị, nết na, có học thức: cách xưng hô “quân tử”, “tiện thiếp” khiêm nhường; cách nói văn vẻ dịu dàng, mực thước (“Làm con đâu dám cãi cha”, “Chút tôi liễu yếu đào thơ, Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần”), cách trình bày vấn đề rõ ràng, khúc thiết, vừa đáp ứng đầy đủ những điều thăm hỏi ân cần của Lục Vân Tiên, vừa thể hiện chân thành niềm cảm kích, xúc động của mình:
 
Trước xe quân tử tạm ngồi
Xin cho tiện tiếp lạy rồi sẽ thưa.
 
– Nguyệt Nga là người chịu ơn, lại là một cái ơn trọng, không chỉ là ơn cứu mạng, mà còn cứu cả cuộc đời trong trắng của nàng (đối với người con gái, điều đó còn quý hơn tính mạng):
 
Lâm nguy chẳng gặp phải nguy,
Triết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.
 
Nàng thấy rất áy náy, băn khoăn tìm cách trả ơn chàng, đủ hiểu rằng có đền đáp đến mấy cũng là chưa đủ:
 
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi
 
Bởi thế, cuối cùng nàng đã tự nguyện gắn bó cuộc đời với chàng khai khẳng khái, hào hiệp đó và đã dám liều mình đẻ giữ trọn ân tình thủy chung với chàng.
 
Nét đẹp tâm hồn đó đã làm cho hình ảnh Kiều Nguyệt Nga chinh phục được tình cảm yêu mến của nhân dân, những con người bao giờ cũng rất xem trọng ơn nghĩa “ơn ai một chút chẳng quên”.
 
4. Nhân vật trong đoạn trích được miêu tả qua hoạt động, cử chỉ, lời nói. Nhân vật ở đây thường được đặt trong những mối quan hệ xã hội, trong những tình huống, những xung đột của đời sống rồi bằng hành động cử chỉ, lời nói của mình, nhân vật tự bộc lộ tính cách và chiếm lĩnh tình cảm yêu hay ghét của người đọc, người nghe. Thêm vào đó, nhiệt tình ngợi ca hay phê phán của tác giả cũng làm cho nhân vật trở nên sống động, để lại những ấn tượng khó quên.
 
5. Nhận xét về ngôn ngữ của tác giả trong đoạn thơ:
 
– Ngôn ngữ mộc mạc, bình dị, gần với lời nói thông thường và mang màu sắc địa phương Nam Bộ. Nó có phần thiếu trau chuốt, uyển chuyển nhưng lại phù hợp với ngôn ngữ người kể chuyện, rất tự nhiên, dễ đi vào quần chúng.
 
– Ngôn ngữ thơ đa dạng, phù hợp với những diễn biến tình tiết: lời lẽ mộc mạc, nhất là ở đoạn đầu – trong lời đối thoại giữa không khí cuộc chiến đang sôi sục, một bên là lời Vân Tiên đầy phẫn nộ, một bên là lời tên tướng cướp hống hách, kiêu căng. Đến đoạn đối thoại giữa Vân Tiên và Nguyệt Nga thì lời lẽ mềm mòng, xúc động, chân thành.

Nguồn: phunumedia