Soạn bài: Thơ Tình của Nguyễn Trãi

THƠ TÌNH CỦA NGUYỄN TRÃI: BƯỚC ĐỘT PHÁ CỦA THƠ CA TRUNG ĐẠI VIỆT NAM

(Biện Quốc Trọng_GV Trường THCS Phong Thạnh Tây)
Tình yêu lứa đôi trong thơ của Nguyễn Trãi là một đề tài đầy thi vị, có sức hấp dẫn kì lạ. Không nghi ngờ gì nữa, bằng sự thận trọng khoa học, các nhà nghiên cứu đều nhận người anh hùng dân tộc của chúng ta chẳng những vĩ đại trong vai trò là một nhân vật lịch sử mà còn vĩ đại trong vai trò là một con người biết sống. Chính những bài thơ tình may mắn còn sót lại đã đưa Nguyễn Trãi đến gần hơn với tuổi trẻ. Chính những bài thơ ấy đã khẳng định “hồn thơ đa dạng của Nguyễn Trãi” (Tế Hanh). Trên nền tảng những gì đã được khẳng định, chúng tôi cố gắng mở những bước đột phá trong thơ tình của Nguyễn Trãi trên hành trình phát triển của thơ ca trung đại Việt Nam.
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh lịch sử đất nước ghi nhận những biến động to lớn: nhà Trần suy yếu, nhà Hồ không được lòng dân, giặc Minh đô hộ nước ta, khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, đất nước được phục hưng. Là con người ưu thời mẫn thế, Nguyễn Trãi trở thành nhân vật lịch sử của thời đại, là công thần khai quốc bậc nhất của nhà Lê. Tuy nhiên, những khía cạnh riêng tư trong đời sống tâm hồn của người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi, còn ít người biết. May mắn thay, trong mấy trăm bài thơ quốc âm được sưu tầm lại của người anh hùng ấy đã tìm được đôi ba bài thơ tình. Nguyễn Trãi không phải là người làm thơ tình đầu tiên ở nước ta, càng không phải là người duy nhất làm thơ tình hay ở nước ta nhưng trong xét hoàn cảnh và thời đại của Nguyễn Trãi thì thơ tình của ông thực sự đã có những bước đột phá.
Tình cảm lứa đôi có mặt trong thơ của Nguyễn Trãi không phải là đột hiện mà nó bén duyên từ những tiền đề văn học, đời sống. Tư tưởng xã hội còn tương đối cởi mở thời Lý – Trần là chất xúc tác để không chỉ một truyện thơ tình như Hương miệt hành ghi được dấu ấn. Tiền đề này âm ỉ sống đến thời Lê sơ. Khi Nho học đã trở thành tư tưởng cai trị xã hội, đề tài tình yêu vẫn tồn tại đâu đó trong Hồng Đức quốc âm thi tập: Cung tần, Đáp “Chồng bỏ”,Động phòng hoa chúc, Hoài viễn, Ngọc Nữ sơn,… Ngay trong Quốc âm thi tập, hình ảnh mang nhiều vẻ riêng tư cũng có mặt như một biểu hiện tự nhiên của tình cảm: Vẻ đẹp của hoa trường yên được nhà thơ ví von: “Ấy chẳng Tây Thi thì Thái Chân” (Trích Vãn xuân). Nhìn những cánh mai in trong đáy nước, nhà thơ thấy như Thái Chân đang soi bóng: “Đáy nước, ngỡ là mặt Thái Chân” (Trích Mai). Ở những bài thơ được xếp vào mục Ngôn chí, hình ảnh người phụ nữ cũng vẫn thấp thoáng: “Tà dương bóng ngả thuở hồng lâu” ( Trích Ngôn chí, 13). Đời sống riêng tư mang nhiều giai thoại của Nguyễn Trãi cũng là một chất men ủ của thơ tình. Trong không gian văn học, đời sống riêng đằm thắm ấy, thơ tình của Nguyễn Trãi ra đời như một lời hoà ca, góp thêm thanh sắc mới lạ vào bản giao hưởng xuân tình.
Truyền thống văn học trung đại luôn ghi nhận người phụ nữ như một đối tượng phụ thuộc, không có tiếng nói, là nạn nhân của chiến tranh, thường hơn là “Thiên địa phong trần /Hồng nhan đa truân”, nếu không cũng trung trinh tiết liệt,… Đối với những nhà Nho chân chính, người phụ nữ luôn được họ tôn trọng, ngợi ca theo cách cửa Khổng sân Trình đã dạy họ. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết:
Buông tiếng ngâm theo trận gió tây
Phòng khuê thiếu phụ ngủ đang say
Chợt nghe rèm màn thấm hơi lạnh
Mới hiểu biệt li là thế đây
Sa tái mộng bay hồn chẳng ngại
Cổ bể tiếng dội dạ tràn đầy
Tí tách trước thềm mưa chợt gõ
Như ai thủ thỉ buồn canh chầy.
(Khuê tình, Đinh Gia Khánh dịch)
Tuyết Giang phu tử đã tỏ rõ thái độ cảm thông, chia sẻ với những phụ nữ nạn nhân chiến tranh. Nguyễn Xuân Ôn trong bài Độc Thuý Kiều truyện cảm tác đã khẳng định:
Ngọc nhan tự cổ mệnh đa truân
Nhất phiến tài tình luỵ kỉ nhân
Cầm khúc khinh chiêu thiên cổ oán
Kính quang trùng nhiễm thập niên trần
Và dù “hồng nhan hoạ thuỷ”, cuối cùng nhân phẩm của họ vẫn ngời sáng:
Dĩ tương thân bạn hồng trần khách
Do giác tình khiên bạch phát thân
Vẫn tiết độc tồn trinh bạch thảo
Hối giao phu tế tác hàng thần.
Ngọc Hân càng khóc vua Quang Trung bi thiết thì càng được kẻ sĩ tán tụng vì nó càng làm ngời sáng những phẩm tiết mà tư tưởng Nho giáo đã vạch sẵn cho người phụ nữ. Nguyễn Trãi không làm như bao người đã làm.
Nguyễn Trãi phác hoạ tâm trạng của những người con gái đang yêu, nhưng cũng không phải là hình tượng một nàng Trương trọn vẹn với tình yêu trong Hương miệt hành, mà là người con gái mang trong mình những khổ sầu, tiếc nuối với tình yêu:
Vì ai cho cái đỗ quyên kêu
Tay ngọc dùng dằng chỉ biếng thêu.
Lại có hoè hoa chen bóng lục
Thức xuân một điểm não lòng nhau.
(Hạ cảnh tuyệt cú)
Tiếng chim đỗ quyên báo hiệu xuân mãn hè sang:
Cuốc kêu xuân báo sắp tàn
Đầy sân xoan nở mưa phùn nghiêng bay.
(Trích dịch Mộ xuân tức sự, Nguyễn Trãi)
Ẩn chứa một tâm sự khó giãi bày, chợt nghe tiếng quốc gọi hè, lòng dạ người con gái bỗng rối bời khiến “tay ngọc dùng dằng chỉ biếng thêu”. Nghe tiếng đỗ quyên người thiếu nữ chợt nhớ lại hình ảnh người yêu. Mùa xuân vẫn còn đâu đó trên những cánh hoa hoè nhưng chàng đã ra đi. Đó là một sự thật nàng cố quên đi nhưng tiếng chim đỗ quyên đã làm cho kỉ niệm buồn kia sống lại. Nên vẻ đẹp của hoa lá dù chỉ một điểm cũng khiến “não lòng nhau”.
Người con gái trong thơ của Nguyễn Trãi không chỉ có nỗi tương tư lúc vắng xa người yêu mà còn có cái xuyến xao bằng cái nhìn trìu mến:
Lầu xanh từ thấy khách thi nhân
Vì cảnh lòng người tiếc cảnh xuân.
(Trích Tích cảnh, 12)
Nàng đã gọi chàng là “khách thi nhân” ngay ở phút đầu tiên. Mấy tiếng ấy gợi lên trong chúng ta về một trang tài tử hào hoa. Ấn tượng ban đầu ấy phải mạnh mẽ lắm khiến người lầu xanh trông thấy đã định danh tướng người. Hẳn khi nhìn thấy người trong mộng ấy, lòng nàng đã mơ đến:
Chén ngà sánh phượng quỳnh tương
Mời chàng Nho sĩ văn chương bước vào.
(Ca dao)
Nhưng không tao ngộ được với chàng nên nàng mới thấy cảnh xuân trở nên vô duyên. Không phải “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, người con gái trong thơ của Nguyễn Trãi chỉ thấy rằng cảnh đang xuân nhưng lòng mình đang sầu nên cảnh vì thế mà mất đi ý nghĩa. Có cảnh xuân mà không có người đem đến xuân lòng thì đã lãng phí cảnh xuân. Chỉ mới nhìn thấy người, chưa thấy tiếng, chưa rõ tình đã đắm say đến nỗi “tiếc cảnh xuân” có phải nàng muốn nói với chúng ta rằng tình yêu bắt đầu từ cái nhìn đầu tiên?
Mới trách thanh đồng tin diễn đến
Bởi chưng hệ chứa Đông quân.
(Trích Tích cảnh, 12)
Nàng trách chỉ tại thanh đồng không đưa tin đến kịp mà chàng đã không đến với nàng. Sao không tự tìm đến mà lại trách người khác? Đọc câu thơ chúng ta thấy được sự thẹn thùng, e lệ đáng yêu của người con gái ngày xưa trong chuyện tình cảm lứa đôi. Thanh đồng là người hầu của tiên, trong lòng nàng khách thi nhân cũng là tiên: Đông quân. Nàng xem chàng là Đông quân của mình. Chàng là người không đem đến mùa xuân cho vạn vật, chàng là người đem đến mùa xuân cho nàng, một Đông quân bằng xương bằng thịt chứ không phải trong những giấc mơ. Chỉ có chàng mới có khả năng làm cho nàng “tốt lại thêm”. Dù người không đến nhưng tình yêu nàng dành cho người mình thầm thương trộm nhớ lại vô cùng nồng cháy: “Bởi chưng hệ chứa Đông quân”.
Có phải Nguyễn Trãi là nhà thơ đầu tiên ở nước ta đem được những cảm xúc rất riêng của người phụ nữ vào thơ? Hình ảnh nàng Trương héo sầu vì nhớ thương Lý Quốc Hoa, ôm khóc khiến chàng hồi sinh là hình tượng người phụ nữ đẹp hiếm có của văn học nước ta. So với những người phụ nữ trong thơ của Nguyễn Trãi, nàng mạnh mẽ và quả quyết hơn. Song, nàng may mắn sống trong thời đại trai gái còn có quyền tự do luyến ái. Quyền khẳng định mình của người phụ nữ chưa bị buộc ràng. Người phụ nữ trong thơ của Nguyễn Trãi lại sống trong vòng kim cô đạo Nho đang xiết lại. Cái Tôi của mày râu đã khó được khẳng định chứ nói chi đến cái Tôi của kẻ phòng khuê. So với thời đại, người phụ nữ trong thơ của Nguyễn Trãi như thế quả là mạnh mẽ.
Nếu chỉ nói về người phụ nữ đang yêu vẫn chưa đủ để thơ tình của Nguyễn Trãi tạo được bước đột phá trọn vẹn. Nói về người cũng là nói về mình, nói về mình không ẩn dưới một vỏ bọc nào khó biết bao ! Không nói, đã nói thì phải nói như Nguyễn Trãi:
Loàn đơn ướm hỏi khách lầu hồng
Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng.
Ngoài ấy dù còn áo lẻ
Cả lòng mượn lấy đắp hơi cùng.
(Tích cảnh, 10)
Bài thơ này đã làm giới nghiên cứu hết sức bất ngờ ngay phút đầu bắt gặp. Chỉ 20 tiếng đã đủ thấy tầm vóc thơ tình của Nguyễn Trãi. Bài thơ Ba tiêuchỉ mới thoang thoảng hương tình thì bài thơ này  đã là một bài thơ tình đạt đến độ chín thực sự. Không vòng vo, bóng gió xa xôi, lời thơ là lời thổ lộ tình yêu mạnh mẽ mà vẫn không kém tình tứ:
Loàn đơn ướm hỏi khách lầu hồng
Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng.
Câu đầu tiên khiến người nghe chờ đợi một câu hỏi. Thật bất ngờ, câu tiếp theo không phải lại là một câu cầu khiến: “Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng”. Nói đến đằm ấm, lạnh lùng tức đã chạm đến cõi riêng của tình cảm lứa đôi, trong buổi sơ giao nếu có rung động thì cũng “tình trong như đã, mặt ngoài còn e” chứ không ai lại mở lời táo bạo như thế. Chỉ hai chữ “đầm ấm” thôi đã đủ khiến khách lầu hồng bồi hồi, nghe hết câu, hẳn không thể không “e lệ nép vào dưới hoa”. Đây không còn là lời tỏ tình mà nó đã là lời khẳng định tình yêu của nhà thơ dành cho giai nhân. Lời thơ ẩn chứa một tình yêu mãnh liệt của tác giả. Tình cảm ấy dẫu mãnh liệt nhưng vẫn không sỗ sàng.
Từ sự bất ngờ này, nhà thơ chuyển đến sự bất ngờ khác:
Ngoài ấy dù còn áo lẻ
Cả lòng mượn lấy đắp hơi cùng.
Tưởng rằng câu chuyện tình yêu đến hai tiếng “lạnh lùng” phải hạ màn nhưng tác giả vẫn tạo được một vĩ thanh tuyệt diệu. Đã yêu đến thế mà chỉ ao ước được mượn áo lẻ về đắp lấy hơi. Nói đến chiếc áo lại là nói đến tình cảm vợ chồng: “Chàng đi để áo lại đây /Phòng khi thiếp nhớ cầm hơi đỡ buồn” (Ca dao). Lời thơ thể hiện tinh tế sự tôn trọng bạn lòng: chỉ mượn chứ không đòi tặng và chỉ mượn chỉ chiếc áo thừa, không có đôi. Từng chữ, từng lời đều gửi đến “khách lầu hồng” một thông điệp tình yêu thắm thiết, chân thành của nhà thơ. Bài thơ Tích cảnh, 10 đã thể hiện được bản lĩnh trong tình yêu của người đàn ông. Lần đầu tiên trong văn học nước nhà có một hình tượng người đàn ông đẹp giản dị mà sống động đến như vậy. Lần đầu tiên trong lịch sử nước nhà có một bậc đại Nho dám nói lên tình yêu của mình mà không phải mượn chuyện tây tàu.
Hình tượng người đàn ông trong văn học chính thống phải là những người có chí vá trời lấp bể, kinh bang tế thế. Phải mang trong mình tâm thế:
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
(Trích Thuật hoài, Phạm Ngũ Lão)
Phải xem công danh sự nghiệp là nhiệm vụ hàng đầu:
Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Trót đem thân thế hẹn tang bồng
Đã mang tiếng có trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.
(Trích Đi thi tự vịnh, Nguyễn Công Trứ)
Còn đối với những bậc công nghiệp thì: “Bui một tấc lòng ưu ái cũ /Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông” (Nguyễn Trãi). Trong xã hội phong kiến, “Phép công là trọng niềm tây sá gì”. Tư tưởng phong kiến không chấp nhân kiếu người đàn ông như Phan Tất Chánh hay Lý Quốc Hoa “máu khô, ruột đứt, tình chưa dứt”, “trơ lại cái xác chết vì tương tư”. Bài thơ Tích cảnh, 10 đã đưa Nguyễn Trãi vượt quá xa vòng cương toả.
Tình yêu đôi lứa được Nguyễn Trãi thể hiện ý nhị qua hình ảnh đọt chuối non, qua tâm trạng nhớ nhung, sầu muộn của những cô gái, nỗi khao khát yêu đương,… chưa đủ tạo nên bước đột phát khi viết về tình yêu của Nguyễn Trãi. Nét đặc sắc nhất và trên cả là thái độ sống của nhà thơ. Nuối tiếc khi tuổi trẻ đã qua đi, tình yêu đến khi mình không còn xuân,… là tâm trạng rất thật của Nguyễn. Nguyễn không giấu giếm tâm sự riêng ấy:
Tiếc thiếu niên qua lật hẹn lành
Hoa hoa nguyệt nguyệt luống vô tình
Biên xanh nỡ phụ người đầu bạc
Đầu bạc xưa nay có thuở xanh.
(Tích cảnh, 4)
Cảnh vật hữu tình, thơ mộng, tài tử giai nhân dập dìu mà mình đã qua rồi cái thời có thể “nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng” như bọn đầu xanh. Càng nhìn cảnh Nguyễn càng thấy “tiếc thiếu niên”. Sinh ra và lớn lên khi đất nước loạn lạc, là một trượng phu, Nguyễn phải có trách nhiệm với Tổ quốc, nhân dân, chuyện riêng tư của tuổi trẻ đâu có chỗ. Khi giang sơn đã thu về một mối, nước nhà đã thái bình, thịnh trị, Nguyễn mới có thì giờ nghĩ về mình. Khi sờ lên mái tóc đã ngã màu sương, nhà thơ đã tự thán: “Hầu nên khôn lại tiếc bâng khuâng”.
Tình yêu nào phân biệt tuổi tác. “Gừng càng già càng cay” có thể đúng với Nguyễn Trãi, ở cái tuổi không còn trẻ để nói chuyện gối chăn mà nhà thơ vẫn có được người thiếp trẻ đẹp, tài hoa đấy thôi. Nhà thơ đã tự tin nói với giai nhân:
Biên xanh nỡ phụ người đầu bạc
Đầu bạc xưa nay có thuở xanh.
            Nhà thơ biết mình là “người đầu bạc”, không xứng để nói lời thề hẹn với “biên xanh” song nhà thơ vẫn gửi đến người ta một thông điệp: Tình yêu không đo bằng tuổi tác, tình yêu được đánh giá bằng độ ngân vang của con tim. “Đầu bạc xưa nay có thuở xanh” mà Nguyễn nói đến chính là sự mãnh liệt, nồng cháy trong tình yêu mình dành cho ai đó.
            Dù ít và trước, sau Nguyễn Trãi vẫn có những nhà thơ viết về tình yêu đôi lứa nhưng cái bức phá của Nguyễn Trãi là nằm ở chỗ chính trong vẻ đẹp tự thân của thơ mình và khả năng tự tin biểu lộ tình cảm cá nhân. Đúng như nhà thơ Tế Hanh ca ngợi: “Nguyễn Trãi là nhà thơ đầu tiên của ta nói đến tình yêu của mình mà không phải núp dưới một câu chuyện tình của người khác”[72]. Nguyễn Trãi không chỉ là nhà thơ quốc âm khai sơn phá thạch mà còn là nhà thơ đầu tiên, nhân vật lịch sử đầu tiên của dân tộc dám nói lên tiếng nói của lòng mình.
Xưa nay vẫn vậy, người phương Đông thường quan niệm người được xã hội nể trọng thì chuyện riêng tư cũng phải được nể trọng, do đó, đời sống tình cảm của các vĩ nhân bị liệt vào hàng cấm kị. Người có địa vị càng cao trong xã hội thường càng kín đáo trong chuyện ấy, sợ ảnh hưởng xấu đến địa vị. Trong xã hội phong kiến, điều này càng quan trọng. Không hẳn các cụ không biết yêu, nhưng phô diễn ra, thậm chí đưa vào thơ ca thì rất kiêng. Nguyễn Bỉnh Khiêm, người thầy của thiên hạ, suốt thơ ông khó lòng tìm được dấu vết của tình cảm vợ chồng. Có viết về vợ thì người vợ trong thơ ông cũng chỉ như một thứ gia vị để ông tỏ chí khí (Nguyên đán thuật hoài). Chuyện bếp núc của các vị hoặc là không nói, hoặc phải nói thì sách vở lại thêm mắn giặm muối để tăng thể diện nhân vật. Một người có vai trò quyết định bánh xe của lịch sử như Nguyễn Trãi lại càng khó có thể tưởng chuyện riêng tây lọt ra bên ngoài. Sự không nên hớ hênh ra một khi đã hớ hênh rất dễ bị dư luận làm méo mó, nó có thể làm tổn hại đến hình ảnh của quan Thừa chỉ. Nhưng thực tế đã làm ngược lại. Dân gian còn dệt lên cả một giai thoại xung quanh cuộc tình duyên của ông với bà Nguyễn Thị Lộ. Sự thật trong thơ đã chứng tỏ Nguyễn Trãi không hề giấu giếm chuyện riêng tư. Nói hộ tình yêu của người cũng là nói tình yêu của mình, chưa thôi, Nguyễn Trãi tự khẳng định riêng tiếng nói của con tim mình. Nhà khao khát yêu đương đến cháy bỏng: “Biên xanh nỡ phụ người đầu bac /Đầu bạc xưa nay có thuở xanh”. Đó đã là một sự phá rào đầy nguy hiểm của Nguyễn Trãi.
Khẳng định cái Tôi chân chính là một đòi hỏi không thể cấm đoán của con người. Khi đạo Nho vẫn chưa có vị trí độc tôn, sự ra đời những tác phẩm diễm tình như Hương miệt hành là một tất yếu. Tống Nho kiềm hãm sự phát triển ý thức cá nhân, một khi nó tự thân mất chỗ đứng thì ý thức ấy mới được trỗi dậy. Văn học nửa cuối thế kỉ 18 chứng kiến sự xuất hiện của hàng loạt tác phẩm dành cho phụ nữ: Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm khúc, Đoạn trường tân thanh,… đặc biệt, gần đây là sự tái xuất của Lưu hương kí. Hàng loạt truyện Nôm tài tử – giai nhân ra đời. Lúc này người ta dám nói lên tiếng nói của con tim mình. Phạm Thái đã khóc thống thiết khi Trương Quỳnh Như chết:
Một mối chung tình tan mấy mảnh
Suối vàng ai nhắn hộ đôi lời.
(Trích Khóc Trương Quỳnh Như)
Lưu hương kí là quyển nhật kí tình yêu của chính Hồ Xuân Hương. Trong bối cảnh chế độ phong kiến đang mục ruỗng những hiện tượng ấy đã trở thành bình thường. Khi tư tưởng Khổng – Mạnh đang khẳng định vị trí số một trong hệ tư tưởng chính thống thì đề tài lứa đôi rất khó nảy sinh.
Ngoại lệ đã dành cho Nguyễn Trãi một đặc ân, là một đại Nho, sống giữa lúc nhà nước phong kiến đang dùng tư tưởng Tống Nho để củng cố chế độ nhà thơ vẫn dám nghêu ngao hát “Tiếc thiếu niên qua lật hẹn lành /Hoa hoa nguyệt nguyệt luống vô tình” Đương thời khó mà chấp nhận. “Làm sao sống được mà không yêu /Không thương không nhớ một kẻ nào”, chỉ là người ta có quyền nói và có dám nói không. Tác giả đã khẳng định mệnh đề thứ hai đồng thời phủ nhận mệnh đề thứ nhất. Sự phá rào của Nguyễn Trãi là một cách khẳng định cái Tôi. Cái Tôi ấy được nhà thơ đặt ngang với địa vị xã hội của mình. Cái Tôi ấy hôm nay chúng ta tán thưởng nhưng đối với thời đại nhà thơ là một sinh thể không được chào đón. Học trò của Nguyễn có thể chỉ quen với hào khí củaBình Ngô đại cáo mà xa lạ và chướng tai với người đàn ông phá rào “Loàn đơn ướm hỏi khách lầu hồng /Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng” ấy. Cách Nguyễn Trãi tỏ lòng thật dễ mất lòng thời đại.
Văn học phong kiến dù không muốn nhưng vẫn không thể từ chối không cho người phụ nữ một chỗ đứng trong văn học. Khi đó, các nhà văn nhà Nho đã làm theo cách Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Xuân Ôn đã làm. Cũng là nhà Nho nhưng Nguyễn Trãi lại đưa người phụ nữ vào văn học như tự thân vốn có của họ. Đó là hình tượng những cô gái đang xuân khao khát yêu đương, sầu muộn vì tình, một sự thất lỗi với truyền thống ứng xử của nhà Nho. Người phụ nữ trong thơ của Nguyễn Trãi khẳng định vẻ đẹp trước hết không phải bằng vẻ mĩ lệ của nhan sắc mà bằng chính vẻ đẹp tâm hồn chưa nhuốm màu đạo đức.
Khuê tình, Độc Thuý Kiều truyện cảm tác với Hạ cảnh tuyệt cú, Tích cảnh, 12 khác nhau không chỉ bởi thể tài, giọng đàn mà còn bởi các nhà thơ xuất phát từ những điểm nhìn nghệ thuật khác nhau. Cả Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Xuân Ôn đều lấy tâm thế của bậc thức giả nhìn nhận vấn đề. Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà bấm máy hơn là một người khuê phụ cô đơn. Nguyễn Xuân Ôn là nhà bình Kiều hơn là Kiều. Khác Nguyễn Du nên cũng khác luôn Nguyễn Trãi. Câu thơ “Giật mình, mình lại thương mình xót xa” là của Kiều nhưng cũng là của Nguyễn Du.
Nguyễn Bỉnh Khiêm nhìn người phụ nữ là khách thể thẩm mĩ khách quan trong khi đó Nguyễn Trãi nhìn người phụ nữ là khách thể thẩm mĩ chủ quan hoá. Từng chữ, từng lời như chính của người trong cuộc viết ra. Người đang tương tư hiểu nỗi tương tư, tả được nỗi tương tư của người đang tương tư. Lấy người phụ nữ đang yêu làm hình tượng nghệ thuật trung tâm đồng thời hoà kết hình tượng nhân vật trữ tình với hình tượng tác giả đã giúp nhà thơ sớm xác lập tính đột phá trong nghệ thuật xây dựng hình tượng nghệ thuật. Thơ của Nguyễn Trãi do đó không còn là tiếng lòng của cá nhân nhà thơ Nguyễn Trãi mà đã là tiếng lòng của nhân thế.
Đọc thơ tình của Nguyễn Trãi, dư vị đầu tiên dễ đọng lại là sự thân thiết, gần gũi. Được viết cách đây hơn năm thế kỉ mà chúng ta vẫn thấy không hề xa lạ chính là nhờ vào tính dân tộc của lời thơ. Hình ảnh đọt chuối của nhà thơ cũng dịu dàng, dung dị trong ca dao:
Da em như đọt chuối non
Eo lưng thắt đáy như con tò vò.
Đọt chuối non được chàng trai ví von như làn da của người yêu bởi sự mịn màng, mơn mởn của nó, còn Nguyễn Trãi lại tìm thấy ở đó một vẻ e ấp, ngập ngừng của tình đầu chớm nở. Thật là sự gặp nhau đầy thú vị của những tâm hồn Việt Nam. Nếu ca dao viết:
Yêu nhau cởi áo cho nhau
Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay.
Hay:
Chàng đi để áo lại đây
Phòng khi thiếp nhớ cầm hơi đỡ buồn.
thì Nguyễn Trãi viết:
Loàn đơn ướm hỏi khách lầu hồng
Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng.
Ngoài ấy dù còn áo lẻ
Cả lòng mượn lấy đắp hơi cùng.
(Tích cảnh, 10)
Ca dao xem chiếc áo như một tín vật của tình yêu, Nguyễn Trãi xem nó như cái cớ giãi bày để rồi thác lời yêu đương. Cả ca dao và Nguyễn Trãi đều tìm thấy ở chiếc áo một ý nghĩa biểu trưng cho tình yêu.
Phong vị ca dao trong thơ tình của Nguyễn Trãi không dừng lại ở hình ảnh thơ mà còn gồm cả ngôn ngữ thơ.
Lạnh lùng thay làng xóm ơi
Xóm làng lạnh ít sao tôi lạnh nhiều.
(Ca dao)
Loàn đơn ướm hỏi khách lầu hồng
Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng
(Trích Tích cảnh, 10)
Phải chăng là sự ngẫu nhiên? Có thế nhưng chỉ có những tâm hồn đắm say chân thật với tình yêu mới có sự gặp nhau trong ngôn ngữ tình yêu như thế. “Lạnh lùng” trong bài ca dao là là lời tỏ tình bóng gió, còn “lạnh lùng” trong thơ của Nguyễn Trãi là lời tỏ tình trực diện. Và Nguyễn Trãi đã nâng thêm một bước khi đặt từ “lạnh lùng” song song với từ “đầm ấm”. Khi đó, nó trở thành một đối trọng ngôn ngữ đầy nghệ thuật. Đặt ngôn ngữ vào thế đối cực cũng là đặt hai tâm hồn vào hai đối cực để đi đến sự đồng điệu.
            Hình ảnh, ngôn ngữ đậm đà tính dân tộc đã ghi điểm 10 cho thơ tình của Nguyễn Trãi trong lúc văn học chữ Nôm còn khập khễnh tập đi. Mãi đến khi thể thơ dân tộc đã định hình, ngôn ngữ thơ dân tộc đã có những bước tiến dài, hội đủ điều kiện, tinh hoa văn học dân gian mới đi vào Truyện Kiều chứ sau Nguyễn Trãi thơ tình trong Hồng Đức quốc âm thi tập vẫn không tránh được sự khuôn sáo, vụng về và thô thiển.
Không chỉ cố công tìm vốn quí của dân tộc, Nguyễn Trãi còn cách tân hình ảnh đã có của thơ. Đông quân trong thơ xưa là hình tượng vị thần cai quản mùa xuân, có vai trò đem lại sức sống cho vạn vật, đất trời. Đến Nguyễn Trãi, Đông quân đã hoá thân thành tình nhân:
Lầu xanh từ thấy khách thi nhân
Vì cảnh lòng người tiếc cảnh xuân
Mới trách thanh đồng tin diễn đến
Bởi chưng hệ chứa Đông quân.
(Tích cảnh, 12)
Đông quân không còn là vị thần đem lại sức sống cho vạn vật mà đã trở thành người đem lại những mộng mị yêu đương cho giai nhân. Đông quân chính là người đã gieo vào lòng kẻ lầu xanh bao nỗi muộn phiền, sầu tư. Hình ảnh mới mẽ ấy nên gọi là gì nếu không gọi là bước đột phá trong sáng tạo nghệ thuật? Sự sáng tạo này về sau đã đắc dụng trong Truyền kì mạn lục: Khi ái ân với Trình Trung Ngộ, Nhị Khanh đã ví chàng như một Đông quân: “Nay dám mong quân tử quạt hơi dương vào hang tối, thả khí nóng tới mầm khô, khiến cho tía rụng hồng rơi, được trộm bén xuân quang đôi chút, đời sống của thiếp như thế sẽ không phải phàn nàn gì nữa” (Cây gạo).
            Chuối cũng được xem là loài cây sánh ngang với tùng, cúc, trúc, mai,… Phẩm chất của nó thường tượng trưng cho khí tiết kẻ sĩ (Vịnh ba tiêu, Hồng Đức quốc âm thi tập). Hay đơn giản hơn, người ta nhìn cây chuối vẫn như bao loài cây bình thường khác: “Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc /Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên” (Trích Chinh phụ ngâm diễn âm tân khúc, Phan Huy Ích). Nhà thơ Trung Quốc Tiền Hải xuất phát từ việc người xưa lấy lá chuối viết thư đã có những câu thơ đầy hồn phách:
Phong thư còn giấu điều chi đó    
Hẳn gió xuân về lén xé xem.
(Trích Vị triển ba tiêu, Nguyễn Khắc Phi dịch)
nhưng nhà thơ đã không đủ cơ duyên để nhìn đọt chuối một cách tình tứ hơn nữa. Đến bàn tay của nghệ sĩ Nguyễn Trãi, đọt chuối đã mang một vẻ đẹp bức phá đầy ngoạn mục:
Tình thư một bức phong còn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem.
(Trích Ba tiêu)
Một tâm hồn thi sĩ, một trái tim đa tình đã tạo hứng cho Nguyễn có được câu thơ năm trăm tuổi còn say lòng người. Vẻ đẹp tân kì của đọt chuối non trong thơ Nguyễn đến hôm nay vẫn chưa ai hơn được. Mỗi khi thấy đọt chuối non lả lơi trong gió, chúng tôi lại tự hỏi sao Nguyễn tinh tế đến như thế?
Chỉ bốn năm bài thơ tư tuyệt ít ỏi nhưng Nguyễn Trãi đã nói thật nhiều về nghệ thuật làm thơ. Bước ra khỏi vườn thơ của Nguyễn, chúng ta không khỏi giật mình tự trách. Ai đó vẫn có thể bàn hươu tán vượn xung quanh thơ của Nguyễn Trãi nhưng những thành tích nghệ thuật Nguyễn Trãi tặng cho chúng ta, chúng ta không thể hững hờ.
Thơ của Nguyễn Trãi không nhiều bài cho tình cảm lứa đôi, dù vậy, chỉ dăm bài cũng đủ chứng minh một hồn thơ tráng khí mà không kém tình tứ nơi ông. Nhà thơ Tế Hanh đã phát biểu: “Nếu sợ làm nhỏ bớt vị anh hùng mà coi thường cái khía cạnh riêng tư của nhà thơ thì không khỏi rơi vào phiến diện, máy móc. Như thế chỉ làm nhỏ hơn, nghèo hơn cái hồn thơ vô cùng phong phú của Nguyễn Trãi mà thôi”[,72] nhưng vì trọng cái khía cạnh riêng tư thái quá cũng dễ làm hình ảnh bậc vĩ nhân bị lu mờ nên mọi sự thận trọng đều có giá trị. Những nét đẹp độc đáo trong thơ tình mà Nguyễn Trãi đạt được có thể về sau không còn đặc sắc nữa nhưng xét theo thời đại và vị thế lịch sử của nhà thơ những giá trị ấy mãi mãi là bất biến và không thể đưa ra bình giá thường tình. Làm sao có thể so sánh khi ở buổi đầu thơ ca dân tộc mà vẫn có được những vần thơ tài hoa, tinh tuý:
Tình thư một bức phong còn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem.
Tài liệu tham khảo:
1.      Phạm Trọng Điềm, Bùi Văn Nguyên (phiên âm, chú giải, giới thiệu, 1982). Hồng Đức quốc âm thi tập, Nxb Văn học, Hà Nội,
2.      Đinh Gia Khánh (chủ biên, 1997). Văn học Việt Nam thế kỉ 10 – nửa đầu thế kỉ 18, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
3.      Mai Quốc Liên (chủ biên, 2000). Nguyễn Trãi toàn tập tân biên (tập …), Nxb Văn học, Hà Nội,
4.      Nguyễn Hữu Sơn (tuyển chọn, giới thiệu, 1999). Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
5.      Bùi Duy Tân (chủ biên, …). Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam (thế kỉ 10-thế kỉ 19), Nxb Giáo dục, Hà Nội.