Bồi dưỡng học sinh giỏi văn 7 – Phần II.2

BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VĂN 7

PHẦN II. NỘI DUNG ÔN TẬP NGỮ VĂN LỚP 7

       Chuyên đề: Giới thiệu cách tiếp cận và cảm thụ một số thể loại tác phẩm văn học trữ tình.

2. Với thơ trữ tình trung đại và hiện đại .

   – Nắm vững hoàn cảnh sáng tác , cuộc đời và sự nghiệp của từng tác giả . Bởi vì có những tác phẩm : “Trữ tình thế sự ”, đó là những tác phẩm nghi lại những xúc động, những cảm nghĩ về cuộc đời về thế thái nhân tình. Chính thơ “ trữ tình thế sự ” gợi cho người đọc đi sâu suy nghĩ về thực trạng xã hội. Cả hai tác giả Nguyễn Trãi – Nguyễn Khuyến đều sáng tác rất nhiều tác phẩm khi cáo quan về quê ở ẩn . Phải chăng từ những tác phẩm của Nguyễn Trãi , Nguyễn Khuyến thì người đọc hiểu được suy tư về cuộc đời của hai tác giả đó .

    – Hiểu rõ ngôn ngữ thơ trữ tình giàu hình ảnh :

       Hình ảnh trong thơ không chỉ là hình ảnh của đời sống hiện thực mà còn giàu màu sắc tưởng tượng bởi khi cảm xúc mãnh liệt thì trí tưởng tượng có khả năng bay xa ngoài “ vạn dặm ” Lưu Hiệp .

      Ví dụ :                Nước sông tuôn thẳng ba ngàn thước

                                   Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây .

                                                                                         Lý Bạch

      Mục đích chính của hình ảnh trong thơ trữ tình là sự khách thể hoá những rung cảm nội tâm , bởi thế giới tinh thần và cảm xúc con người vốn vô hình nên nhất thiết phải dựa vào những điểm tưạ tạo hình cụ thể để được hữu hình hoá. Một nỗi nhớ vốn không nhìn thấy được đã trở lên cụ thể đầy khắc khoải, bồn chồn:

Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai  ”  .

       Hay :

                           Ôi Bác Hồ ơi những xế chiều

                            Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu

                            Ra đi, Bác dặn : còn non nước …

                            Nghĩa nặng , lòng không dám khóc nhiều .

                                                                            (Chế Lan Viên)

    – Hiểu rõ ngôn ngữ thơ trữ tình giàu nhạc tính . Bởi thơ phản ánh cuộc sống qua những rung động của tình cảm . Thế giới nội tâm của nhà thơ không chỉ biểu hiện bằng từ ngữ mà bằng cả âm thanh nhiịp điệu của từ ngữ ấy . Nhạc tính trong thơ thể hiện ở sự cân đối tương xứng hài hoà giữa các dòng thơ .

      Ví dụ :        “ Gác mái ngư ông về viễn phố

                            Gõ sừng mục tử lại cô thôn  .

                                                          (Huyện Thanh Quan)

      Nhạc tính còn thể hiện ở sự trầm bổng của ngôn ngữ thơ . Đó là sự thay đổi âm thanh cao thấp khác nhau . Chính âm thanh của chữ nghĩa đã tạo nên những điều mà nghĩa không thể nói hết :

                          Tôi lại về quê mẹ nuôi xưa

                             Một buổi trưa , nắng dài bãi cát

                             Gió lộng xôn xao , sóng biển đu đưa

                             Mát rượi lòng ta ngân nga tiếng hát .

                                                                        (Tố Hữu)

    – Đặc điểm nổi bật của thơ trữ tình là rất hàm xúc điều đó đòi hỏi người cảm thụ phải tìm hiểu từ lớp ngữ nghĩa , lớp hình ảnh , lớp âm thanh, nhịp điệu để tìm hiểu nghĩa đen, nghĩa bóng  .

      Ví dụ :            “ Ôi những cánh đồng quê chảy máu

                                Dây thép gai đâm nát trời chiều

                                Những đêm dài hành quân nung nấu

                                Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu .

                                                                   (Nguyễn Đình Thi )

      – Nắm rõ các giá trị nghệ thuật mà thơ trữ tình  sử dụng . Đó là các phép tu từ ẩn dụ nhân hoá, so sánh, ví von . Cách thể hiện tình cảm thường được thông qua các cách miêu tả : “ Cảnh ngụ tĩnh ” . Ai cũng biết , mọi cảm xúc tâm trạng suy nghĩ của con người đều là cảm xúc về cái gì ? Tâm trạng hiện thực nào – Suy nghĩ về vấn đề đó . Do vậy các sự kiện đời sống được thể hiện một cách gián tiếp . Nhưng cũng có bài thơ trữ tình trực tiếp miêu tả bức tranh phong cảnh làm nhà thơ xúc động :

                                Bước tới đèo ngang bóng xế tà

                                   Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

                                   Lom khom dưới núi tiều vài chú

                                   Lác đác bên sông chợ mấy nhà

                                   Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

                                   Thương nhà mỏi miệng cái gia gia  .

                                                                          (Bà Huyện Thanh Quan)

         Đến đây người đọc cảm nhận thấy : Từ cảnh vật đèo ngang – tâm trạng buồn thương cô đơn của tác giả .

      – Thơ trữ tình có nét khác biệt hẳn với lời thơ tự sự . Người cảm nhận thơ trữ tình phải hiểu rõ ngôn ngữ thơ trữ tình thường là lời đánh giá trực tiếp chủ thể đối với cuụoc đời

   Ví dụ như :

                                              “ Đẹp vô cùng tổ quốc ta ơi

                                         Rừng cọ đồi chè,đồng xanh ngào ngạt ”

                                                                                          (Tố Hữu)

     Ngay khi miêu tả, lời thơ cũng là lời đánh giá:

                                              Nông trường ta rộng mênh mông

                                         Trăng lên, trăng lặn cũng không ra ngoài

                                                                                           (Tế Hanh)

     Chính việc đánh giá trực tiếp làm cho lời thơ chữ tình căn bản khác với lời tự sự là lời miêu tả. Và lời thơ trữ tình là lời của chủ thể:

        Ví dụ:

                                       Trời xanh đây là của chúng ta

                                         Núi rừng đây là của chúng ta.

                                                                               (Nguyễn Đình Thi.)