Hướng dẫn phân tích bài thơ Chiều tối

PHÂN TÍCH BÀI THƠ CHIỀU TỐI – HỒ CHÍ MINH
1/ Đặc điểm thể loại:
Bài thơ được sáng tác theo kiểu tứ tuyệt luật Đường. Thông thường, có hai hướng phân tích:
+ Theo bố cục: hai phần – hai cầu đầu, hai câu cuối.
+ Theo kết cấu: khai – thừa – chuyển – hợp.

Từ đặc điểm nghệ thuật (sự vận động của thi tứ, không gian, thời gian nghệ thuật) và hình tượng thơ (hai cầu đầu: bức tranh thiên nhiên, hai câu sau: bức tranh đời sống con người), nên chọn cách thứ nhất để phân tích.
  2.1/ Hai cầu đầu:
– Một khung cảnh thiên nhiên nơi núi rừng lúc chiều tối. Có cánh chim chiều mệt mỏi đang bay về tổ. Có chòm mây lẻ loi, lững lờ trôi giữa tầng không.
– Một không gian rộng lớn, thinh vắng trong cái thời khắc cuối cùng của một ngày.
– Cũng giống như trong thơ cổ điển phương Đông, khung cảnh thiên nhiên đã được phác họa bằng những nét chấm phá. Nhà thơ không nghiêng về tả mà chỉ gợi qa một vài nét, cốt ghi lấy linh hồn của cảnh vật. Toàn bộ khung cảnh thiên nhiên miền sơn cước hiện ra một cách đơn sơ qua cánh chim chiều mỏi mệt đang bay về tổ và áng mây lẻ loi, lững lờ trôi giữa tầng không.
– Hình ảnh cánh chim bay về tổ, thường mang ý nghĩa biểu tượng cho buổi chiều tà: Chim bay về núi, tối rồi” (Ca dao), Chim hôm thoi thóp về rừng (Truyện Kiều – Nguyễn Du), Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi (Chiều hôm nhớ nhà – Bà Huyện Thanh Quan),… Trong thơ Bác cũng thế Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ vừa là một nét phác họa không gian vừa gợi ra ý niệm thời gian. 
Mặc dù vậy, hình tượng cánh chim trong thơ Bác không chỉ được quan sát ở trạng thái vận động bên ngoài như trong thơ xưa (Cánh chim bay) mà còn được cảm nhận rất sâu ở trạng thái bên trong (cánh chim mỏi mệt). Có thể thấy một sự gận gũi, tương đồng giữa cánh chim bay mỏi mệt sau một ngày kiếm ăn với người tù đã thấm mệt sau một ngày vất vả lê bước đường trường. Ngoại cảnh cũng là tâm cảnh. Trong ý thơ có sự hòa hợp, đồng điệu giữa tâm hồn nhà thơ và cảnh vật thiên nhiên. Cội nguồn của sự cảm thông ấy là tình yêu thương mênh mông của Bác dành cho mọi sự sống trên đời.
– Hình ảnh Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không gợi nhớ câu thơ của Thôi Hiệu trong bài thơ Hoàng Hạc Lâu: Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay và thơ Nguyễn Khuyến: Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt (Thu điếu). Vẫn là một thi liệu quen thuộc nhưng mây thơ Bác không gợi sự vĩnh viễn hay mang cái khắc khoải mơ hồ của con người trước hư không mà là một chòm mây cô đơn, đang chậm chậm trôi giữa bầu trời bao la. Chòm mây như có hồn người, nó như mang cái tâm trạng lẻ loi, đơn độc và cái băn khoăn, trăn trở chưa biết tương lai phía trước sẽ đến đâu của người tù nơi đất khách.
-> Bác không hề nói trực tiếp tới thời gian, nhưng ta vẫn nhận thấy thời gia (chiều tà) qua cánh chim bay mỏi và chòm mây cô đơn lẻ loi trôi lững lờ trên bầu trời.
– Hai câu đầu của bài Chiều tối còn gợi nhớ hai câu thơ của Lí Bạch trong bài Độc tọa Kính Đình Sơn (Một mình ngồi
trên núi Kính Đình):
Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn
(Bầy chim một loạt bay cao
Lưng trời thơ thẩn đám mây một mình)
Có thể thấy, nếu cánh chim trong thơ LB bay mất hút vào cõi vô tận thì trong thơ Bác, đó là cánh chim của đời sống hiện thực, nó bay theo cái nhịp điệu quen thuộc và bình ổn của cuộc sống: Sáng bay đi kiếm ăn, tối bay về rừng tìm chốn ngủ. Áng mây của LB bay nhàn tản gợi cảm giác thoát tục, còn chòm mây trong bức tranh thơ của Bác toát lên cái vẻ yên ả, thanh
bình của đời sống thường ngày.
– Trong cảnh ngộ bị giải đi từ lúc: Gà gáy một lần đêm chửa tan, phải hứng chịu Gió thu lạnh lẽo từng trận từng trận táp vào mặt (Giải đi sớm), phải trải qua Năm mươi ba cây số một ngày – Mũ áo dầm mưa ướt hết giày (Đi đường) trong cảnh xiềng xích thay dây trói và rồi Lại khổ thâu đêm không đủ chỗ – Ngồi trên hố xí đợi ngày mai, nhưng cảm hứng thơ vẫn đến với Bác. Không có chân dung người tù khổ ải mà chỉ hiện ra cái dáng vẻ, phong độ của tao nhân mặc khách đang ung dung, thư thái thưởng ngoạn cảnh chiều hôm nơi rừng núi. Những câu thơ mềm mại nhưng thực ra lại có chất thép bên trong. Nếu không có ý chí và nghị lực phi thường vượt lên trên hoàn cảnh, có bản lĩnh kiên cường và sự tự chủ, tự do hoàn toàn về tinh thần ở Bác thì cũng khó có được những vần thơ cảm nhận thiên nhiên sâu sắc, tinh tế như thế trong hoàn cảnh tù đầy khắc nghiệt.
=> Một bức tranh thiên nhiên mang vẻ đẹp cổ điển nhưng bình dị, gần gũi. Thiên nhiên không chỉ có hình xác mà còn có hồn, có tâm trạng. Con người hòa hợp, tương giao với thiên nhiên. Hai câu đầu tả cảnh nhưng giầu ngụ tình . Đó là cảnh ngộ và tâm trạng của người tù xa xứ – những tình cảm rất nhân bản.

 

  2.2/ Hai câu cuối:
– Từ hai câu đầu đến hai câu cuối, mạch thơ vận động, chuyển đổi: Nếu hai câu đầu là khung cảnh thiên nhiên (cảnh vật có trời mây, chim muông) thì hai câu sau là bức tranh đời sống con người (hình ảnh con người lao động); nếu hai câu trên không gian rừng núi hoang vù thì đến hai câu thơ dưới là xóm núi ấm áp; nêu hai câu trên là thời gian lúc chiều tà thì đến hai câu cuối thời gian đã chuyển về đêm tối nhưng lại bừng sáng ánh lửa hồng.
– Một lần nữa, ta nhận ra cái nhìn trìu mến hướng về sự sống ở Bác. Cái nhìn ấy vừa tự nhiên như bao người khác vừa thể hiện sự quan tâm và tình cảm yêu thương của Người với những người lao động nghèo. Hai câu thơ có sắc thái tươi vui cho thấy một niềm phấn khích, thích thú trước vẻ đẹp của cuộc sống đời thường đang dâng lên trong tâm hồn nhà thơ. Dường như Người đã hoàn toàn quên đi cảnh ngộ của mình để cảm nhận cuộc sống, để đồng cảm, sẽ chia sẻ niềm vui, niềm hạnh phúc bình dị của người lao động tuy vất vả nhưng tự do và tự chủ.
– Trong sự vận động của mạch thơ có sự chảy trôi của dòng thời gian. Như đã đối chiếu, nguyên tác không hề có chữ tối. Chữ tối trong bản dịch là do người dịch thơ thêm vào. Điều thú vị mà nhiều người đã từng nói là: Nguyên văn không nói đến tối mà tự nhiên người đọc vẫn cảm nhận được trời tối và thời gian đang trôi dần từ chiều tà đến đêm khuya.
+ Ba chữ ma bao túc ở cuối câu 3 được điệp vòng ở đầu câu 4 bao túc ma hoàn đã tạo nên sự nối âm liên hoàn, nhịp nhàng như vừa diễn tả cái vòng soay không dứt của động tác xay ngô vừa thể hiện dòng lưu chuyển của thời gian từ chiều đến tối.
+ Mặt khác, chính chữ hồng ở cuối bài thơ cũng giúp người đọc hình dung ra bóng tối đang buông xuống xóm núi. Trời tối, người đi mới nhìn thấy ánh sáng lửa rực hồng lên đến thế. Trong thơ, người ta có thể dùng xa để nói gần, dùng động để nói tĩnh… Trong bài thơ này, Bác đã dùng sáng để nói tối, đúng như giáo sư Lê Trí Viễn đã bình rất hay: “Đúng là xay ngô tối
nhưng đặt chữ tối vào đây thì sớm quá, lộ quá. Nguyên văn không nói đến tối mà tự nhiên nói đến, thời gian trôi dần theo cánh chim và làn mây, theo những vòng xoay của cối ngô, quay quay mãi, ma bao túc… bao túc ma hoàn và đến khi cối xay dừng lại thì lô dĩ hồng, lò đã rực hồng, tức trời tối, trời tối thì lò rực lên”.
 
-> Như vậy, cũng giống như nhiều bài thơ khác của Bác, hình tượng thơ trong Chiều tối vận động thật khỏe khoắn, bất
ngờ và theo xu thế phát triển: từ ánh chiều âm u, tăm tối đến ánh lửa rực hồng, ấm áp; từ mệt mỏi đến khỏe khoắn; từ buồn đến vui. Sự vận động này cho thấy cái nhìn tràn đầy niềm lạc quan yêu đời, thể hiện một tâm hồn luôn hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai ở nhà thơ – chiến sĩ HCM.
TỔNG KẾT
Chiều tối là những vần thơ “quên mình” của Bác. Bài thơ không chỉ miêu tả cảnh chiều nơi sơn cước mà trên hết và toát lên từ toàn bộ thi phẩm là hình tượng nhân vật trữ tình có tấm lòng yêu thương rộng lớn, luôn luôn nâng niu , trân trọng mọi sự sống trên đời. Người đã quên đi cảnh ngộ của bản thân mình, sự đau đến của thể xác, sự mệt mỏi về tinh thần để yêu thương và nâng niu một cánh chim chiều, một áng mây trôi, một cảnh lao động vất vả nhưng rất đỗi bình dị, tự do của con người. Sự “nâng niu” ấy xuất phát từ một lẽ sâu xa và lớn đẹp hơn ở Bác:
Bác sống như trời đất của ta
Và như thế, chất thơ của Chiều tối, xét đến cùng, là chất thơ của cuộc đời, của tạo hóa, của tình yêu thiên nhiên, cuộc sống luôn thường trực trong Bác.
– Nghệ thuật tả cảnh trong bài thơ vừa có nét cổ điển (bút pháp chấm phá, ước lệ với các thi liệu xưa cũ) vừa có nét hiện đại (bút pháp tả thực sinh động với những hình ảnh dân dã đời thường; con người là trung tâm của bức tranh). Chỉ bằng một vài nét phác họa, nhà thơ đã thu được cái linh hồn của tạo vật đồng thời kín đáo thể hiện cảnh ngộ và nỗi lòng của bản thân.
– Ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, hàm súc, được sử dụng linh hoạt, sáng tạo, có sức gợi tả, gợi cảm cao: quyển điểu, cô vân, mạn mạn, ma bao túc – bao túc ma hoàn, hồng.